Bản án về tội giết người số 27/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 27/2023/HS-ST NGÀY 17/07/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 17 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1995/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Mai Hoàng P, sinh năm 1998 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông M, sinh năm: 1962 và bà Nguyễn Thị Hòa C, sinh năm 1962; vợ: Huỳnh Thị Mỹ D, sinh năm: 2001; bị cáo có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27 tháng 11 năm 2022 đến ngày 30 tháng 11 năm 2022 chuyển sang tạm giam cho đến nay (có mặt);

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Nhật Long H- Luật sư Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre, có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Văn H: Bà Hồ Thị N, sinh năm: 1967; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Hòa C, sinh năm: 1962; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Châu Vũ L, sinh năm: 1983; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, có mặt.

2. Hồ Hoài A, sinh năm: 2005; Nơi cư trú: Ấp 3, xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre, có mặt.

3. Bùi Thị N, sinh năm: 1950; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.

4. Mai Hoàng S, sinh năm: 1996; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, có mặt.

5. Nguyễn Văn T, sinh năm: 1986; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.

6. Thái Thị Thu T, sinh năm: 1991; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.

7. Võ Văn Tâm E, sinh năm: 1995; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.

8. Nguyễn Thị B, sinh năm: 1988; Nơi cư trú: Ấp A, xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 26-11-2022, Mai Hoàng P cùng các anh Châu Vũ L, Ngô Văn H, Hồ Hoài A, Võ Văn Tâm E, các chị Nguyễn Thị B, Thái Thị Thu T … và 04 người bạn (không rõ họ tên, địa chỉ) của anh L ở tỉnh Long An uống bia tại quán “Nắng Chiều” của anh Châu Vũ L, ở ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, cả nhóm thống nhất đi đến cồn Nhàn ở xã Bảo Thuận, huyện B chơi nhưng anh H và chị T không đi. Tại cồn Nhàn, cả nhóm tiếp tục uống bia. Sau đó, cả nhóm đi đến thị trấn B uống bia và hát Karaoke. Khoảng 19 giờ cùng ngày thì nghỉ, những người bạn của anh L về Long An, Mai Hoàng P chở anh L và anh Ân về quán “Nắng Chiều”. Tại đây, P trách móc anh H về việc anh H đã đồng ý cùng cả nhóm đến cồn Nhàn chơi nhưng anh H không đi thì giữa P và anh H xảy ra cự cãi với nhau. P dùng nón bảo hiểm đánh anh H, anh H dùng tay đỡ đồng thời nhặt tấm gạch men đuổi đánh P, P bỏ chạy vào khu vực quầy pha chế nước uống lấy 01 con dao Thái Lan đâm anh H, anh H dùng tấm gạch men đỡ làm dao bị cong, P vứt con dao xuống nền đất thì bị anh H dùng tấm gạch men đánh trúng vào đầu gây thương tích. Anh L thấy vậy vào can ngăn, P đi vào khu vực bếp của quán. Tại đây, P lấy cây kéo làm cá rồi quay lại chỗ anh H. Thấy vậy, anh L can ngăn nhưng P dùng kéo xông vào đâm anh H nhưng trúng vào vùng lưng của anh L, anh L ôm vết thương ngồi xuống. P và anh H tiếp tục giằng co với nhau nhau làm cả hai ngã xuống nền đất. P dùng kéo đâm nhiều nhát vào người anh H. Khi anh H đứng lên bị P tiếp tục dùng kéo đâm làm anh H khuỵu xuống, thấy vậy, anh  đi đến đỡ anh H. Sau đó, anh H và anh L được đưa đến Bệnh viện Đa khoa khu vực B cấp cứu nhưng anh H đã tử vong ngoại viện.

Sau khi đâm anh H, P cầm cây kéo trên tay điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 63B3 – 461.94 đến nhà anh Nguyễn Văn T trả xe. P đi ra nhà sau của anh Thiện rửa vết thương và để cây kéo tại sàn nước. P được anh Thiện chở ra bến đò để P về nhà. Sau khi kể cho người nhà nghe việc đánh nhau với anh H và khi biết anh H tử vong, P đến Công an xã An Thuỷ, huyện B đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi đã gây ra.

Vật chứng thu giữ:

- 01 cây kéo bằng kim loại màu đen, mũi nhọn, kéo có 02 lưỡi, mỗi lưỡi có 01 cạnh sắc, nơi rộng nhất của lưỡi kéo 2,7cm, kéo dài 21,2cm, lưỡi dài 11,9cm, trên kéo có dính nhiều vết màu nâu nghi máu.

- 01 con dao Thái Lan cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại màu trắng bị cong vênh, dao có 01 lưỡi sắt, mũi tà, dao dài 21cm, lưỡi dao dài 11cm, nơi rộng nhất 2cm.

- 01 đôi dép kẹp màu đen.

- 02 đôi dép nhựa quai ngang màu vàng.

- Phần lót bên trong của nón bảo hiểm bằng nhựa xốp màu trắng có vải lót bên trong màu đen.

- Nhiều mảnh vỡ của nón bảo hiểm bằng nhựa, mặt trong màu xám, mặt ngoài màu tím.

- Nhiều mảnh vỡ của gạch men, có mặt màu của đá hoa cương, mảnh gạch lớn nhất kích thước 32,5cm x 19cm x 01cm.

- 03 vết máu màu nâu nghi máu.

- 01 chiếc võng màu xám, trên võng có dính vết màu nâu nghi máu.

- 01 áo sơ mi dài tay màu trắng bông đen, áo dính nhiều máu, thân áo trước bên phải có 07 vết thủng vải, sắc gọn; thân áo trước bên trái có 02 vết đứt thủng vải; vùng lưng áo có 02 vết thủng vải; đầu trên tay áo bên phải có 01 vết thủng vải.

- 01 quần Jean dài màu đen, mặt trước ống quần bên phải có vết rách nham nhỡ; mặt sau thân quần bên phải có vết thủng.

- 01 áo vải dài tay màu vàng sậm, trên áo có dính nhiều vết màu nâu nghi máu.

- 01 quần Jean ngắn màu xanh – trắng, phía sau lưng quần có mạc màu cam.

- Máu, tóc của Ngô Văn H.

- Tóc của Mai Hoàng P.

- Tóc của Châu Vũ L.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 60-22/TT ngày 20-12-2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bến Tre, kết luận đối với Ngô Văn H:

- Vùng ngực phải có 02 vết thương hình bầu dục, bờ mép sắc gọn.

- Vùng thượng vị có 02 vết thương hình bầu dục, bờ mép sắc gọn.

- Vùng hạ sườn phải có 03 vết thương hình bầu dục, bờ mép sắc gọn.

- Vùng hông phải có 02 vết thương hình bầu dục, bờ mép sắc gọn.

- Vùng lưng trái có 02 vết thương hình bầu dục, bờ mép sắc gọn.

- Mặt ngoài đầu trên cánh tay phải có 02 vết sây sát da.

- Mặt sau trên 1/3 đùi phải có 01 vết thương hình bầu dục, bờ mép sắc gọn.

+ Vết thương thứ hai vùng ngực phải sâu thấu vào trong qua khoảng liên sườn 5-6, thủng mặt sau thuỳ dưới phổi phải.

+ Xoang ngực phải chứa khoảng 100ml máu loãng.

+ Phổi phải phù nề sung huyết.

+ Xoang bụng có nhiều máu loãng.

+ Vết thương thứ ba vùng hạ sườn phải sâu thấu vào ổ bụng.

+ Vùng mạc treo bị thủng, xuất huyết, tụ máu.

+ Vùng tiểu khu xuất huyết, tụ máu.

+ Xuất huyết, tụ máu vùng hố thận (phải, trái).

+ Xuất huyết, tụ máu vùng rốn thận phải.

- Nguyên nhân tử vong: Mất máu nặng/Đa vết thương thấu ngực, bụng”.

Tại Bản kết luận giám định ADN số 6630/KL-KTHS ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- Dấu vết nghi máu thu tại hiện trường 1, dấu vết trên cây kéo và dấu vết dính trên võng là máu người. Không phân tích được kiểu gen do mẫu kém nên không truy nguyên được cá thể.

- Dấu vết nghi máu thu tại hiện trường 2 và 3; dấu vết dính trên áo vải dài tay màu vàng sậm; dấu vết dính trên quần Jean ngắn màu xanh, trắng gửi giám định là máu người. Kiểu gen của mẫu máu này trùng với kiểu gen của Mai Hoàng P.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 46-23/TgT ngày 23-02- 2023 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bến Tre, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo vết thương trán đỉnh, kích thước trung bình.

- Sạm da khuỷu tay phải.

- Sẹo cẳng tay trái, kích thước nhỏ.

* Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28-8-2019 của Bộ Y tế quy định về tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phẩn trăm tổn thương cơ thể của Mai Hoàng P tại thời điểm giám định là: 4%, áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư”.

Quá trình điều tra, bà Hồ Thị N là đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Văn H yêu cầu bị can Mai Hoàng P bồi thường 115.000.000 đồng tiền mai táng phí và 30.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần. Tổng cộng 145.000.000 đồng, đã nhận bồi thường 115.000.000 đồng.

* Tại Bản cáo trạng số 28/CT-VKSBT-P1 ngày 03/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre truy tố Mai Hoàng P về “Tội giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa: Bị cáo Mai Hoàng P khai nhận hành vi phù hợp nội dung bản Cáo trạng. Bị cáo thừa nhận dùng kéo đâm nhiều cái vào người của anh H, nguyên nhân anh H tử vong là do bị cáo đã gây ra.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố luận tội và tranh luận: Không thay đổi quan điểm truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo Mai Hoàng P phạm “Tội giết người”. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Hoàng P từ 12 đến 14 năm tù; Về phần trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường tiếp cho đại diện hợp pháp của bị hại 30.000 000 đồng; Về xử lý vật chứng, tịch thu tiêu hủy các vật đã thu giữ.

Bị cáo không tranh luận.

Người bào chữa cho bị cáo tranh luận: Cho rằng không tranh luận về tội danh, về tình tiết vụ án, khi bị cáo về ghé quán của anh L, bị cáo có hỏi chuyện với H, do H đánh bị cáo trước, vụ việc do cách xử sự cả hai bên, sau khi đánh nhau với H bị cáo đi đầu thú, bị cáo có tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho phía bị hại, bị cáo ăn năn hối hận, bị cáo có con nhỏ, tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà Kiểm sát viên đưa ra và áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt dưới khung mà điều luật quy định cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp cho người bị hại không tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nói lời xin lỗi gia đình bị hại, bị cáo còn cha mẹ già, con còn nhỏ yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an tỉnh Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố về tổng thể đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng không ảnh hưởng đến xét xử nên phiên tòa tiếp tục xét xử theo quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập, có cơ sở xác định: Vào khoảng 20 giờ ngày 26-11-2022, tại ấp A, xã An Thuỷ, huyện B, tỉnh Bến Tre, sau khi có lời qua tiếng lại dẫn đến xô xát với nhau và được anh Châu Vũ L can ngăn nhưng Mai Hoàng P đã có hành vi dùng kéo đâm nhiều cái vào người của anh Ngô Văn H làm anh H tử vong do mất máu nặng H quả của đa vết thương ngực, bụng.

Giữa bị cáo và bị hại không mâu thuẫn nhau, nhưng chỉ vì bị hại không đi chơi cùng như đã hứa mà xảy ra cự cãi, xô sát, bị cáo dùng nhiều loại hung khí chống trả trong đó bị cáo dùng kéo là hung khí nguy hiểm đâm nhiều cái vào người bị hại. Hành vi của bị cáo thể hiện tính cách xem thường tính mạng của người khác. Hành vi của bị cáo dẫn đến hậu quả chết người. Bị cáo là người thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự;

Với ý thức, hành vi và hậu quả do bị cáo đã gây ra, Cáo trạng số: 28/CT-VKSBT- P1 ngày 03/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre truy tố bị cáo Mai Hoàng P về “Tội giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự, với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện hành vi chỉ vì nguyên cớ nhỏ nhặt, xâm phạm tính mạng của người khác trái pháp luật, gây đau thương tang tóc cho gia đình nạn nhân không gì bù đắp được, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong nhân dân. Hành vi của bị cáo phạm vào trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nên cần áp dụng hình phạt tù có mức độ tương xứng nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại với số tiền 115.000.000đồng; bị cáo có con còn nhỏ sinh năm 2018, tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự).

[3] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại (bà Hồ Thị N) yêu cầu bồi thường 145.000.000 đồng, gồm: Tiền mai táng phí: 115.000.000 đồng; Tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 30.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường nên được ghi nhận để bị cáo thực hiện. Đã bồi thường 115.000.000 đồng, bị cáo phải bồi thường tiếp phần còn lại là 30.000.000 đồng.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy vật chứng đã thu giữ do không có yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng và lượng ma túy còn lại sau giám định.

[5] Những vấn đề khác: Đối với hành vi Mai Hoàng P gây thương tích cho anh Châu Vũ L, do thương tích nhẹ, anh L không yêu cầu xử lý hành vi này đối với Mai Hoàng P.

[6] Về án phí: Bị cáo Mai Hoàng P phải chịu án phí theo luật định.

[7] Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, quan điểm của người bào chữa cho bị cáo có phần không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Mai Hoàng P phạm “Tội giết người”.

Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Mai Hoàng P 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 27 tháng 11 năm 2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Mai Hoàng P bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền còn lại là 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền chưa được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy đồ vật khi bản án có hiệu lực pháp luật gồm:

- 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu đen, mũi nhọn, kéo có 02 lưỡi, mỗi lưỡi có 01 cạnh sắc, nơi rộng nhất của lưỡi kéo 2,7cm, kéo dài 21,2cm, lưỡi dài 11,9cm, trên kéo có dính nhiều vết màu nâu nghi máu.

- 01 (một) con dao Thái Lan cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại màu trắng bị cong vênh, dao có 01 lưỡi sắt, mũi tà, dao dài 21cm, lưỡi dao dài 11cm, nơi rộng nhất 2cm.

- 01 (một) đôi dép kẹp màu đen.

- 02 (hai) đôi dép nhựa quai ngang màu vàng.

- Phần lót bên trong của nón bảo hiểm bằng nhựa xốp màu trắng có vải lót bên trong màu đen.

- Nhiều mảnh vỡ của nón bảo hiểm bằng nhựa, mặt trong màu xám, mặt ngoài màu tím.

- Nhiều mảnh vỡ của gạch men, có mặt màu của đá hoa cương, mảnh gạch lớn nhất kích thước 32,5cm x 19cm x 01cm.

- 03 (ba) vết màu nâu nghi máu thu tại hiện trường vụ án (còn lại sau giám định).

- 01 (một) chiếc võng màu xám, trên võng có dính vết màu nâu nghi máu (còn lại sau giám định).

- 01 (một) áo sơ mi dài tay màu trắng bông đen, áo dính nhiều máu, thân áo trước bên phải có 07 vết thủng vải, sắc gọn; thân áo trước bên trái có 02 vết đứt thủng vải; vùng lưng áo có 02 vết thủng vải; đầu trên tay áo bên phải có 01 vết thủng vải.

- 01 (một) quần Jean dài màu đen, mặt trước ống quần bên phải có vết rách nham nhỡ; mặt sau thân quần bên phải có vết thủng.

- 01 (một) áo vải dài tay màu vàng sậm, trên áo có dính nhiều vết màu nâu nghi máu. cam.

- 01 (một) quần Jean ngắn màu xanh – trắng, phía sau lưng quần có mạc màu - Máu của tử thi Ngô Văn H.

- Tóc của Châu Vũ L, Mai Hoàng P và tử thi Ngô Văn H.

(Đồ vật trên theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/4/2023 hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre đang quản lý)

4. Về án phí: Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Hoàng P phải nộp là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng và 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

6. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 27/2023/HS-ST

Số hiệu:27/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về