Bản án về tội giết người số 220/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 220/2023/HS-PT NGÀY 19/04/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 19 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 681/2022/TLPT- HS ngày 29- 9-2022 đối với bị cáo Ngô Văn A do có kháng cáo của bị cáo Ngô Văn A và đại diện hợp pháp của bị hại bà Phạm Thị L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HSST ngày 17-8-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Ngô Văn A, sinh năm 1985, tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Ấp PĐ B, xã PĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn Th và bà Nguyễn Thị B; vợ: Trần Thị Q, con: Có 02 người; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 24-12-2021, chuyển sang tạm giam từ ngày 30-12-2021 cho đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Ngô Văn A: Luật sư Nguyễn Bá T thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị hại có kháng cáo:

- Chị Trần Thị Q, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 6, ấp PĐ B, huyện GD, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Cháu Ngô Kim Y, sinh năm 2006; địa chỉ: Tổ 6, ấp PĐ B, huyện GD, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Đại diện hợp pháp cho chị Q và cháu Y: Bà Phạm Thị L; sinh năm 1950; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố L, thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định; chỗ ở hiện nay: Tổ 6, ấp PĐ B, huyện GD, tỉnh Tây Ninh (là mẹ ruột của chị Q); vắng mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật sư Phạm Thị Kim D thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Văn A và chị Trần Thị Q là vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn về chuyện tình cảm, hiện đang sống ly thân ở 02 căn nhà cạnh nhau tại ấp PĐ B, xã PĐ, huyện GD, chờ Tòa án nhân dân huyện GD giải quyết ly hôn. Vào tối ngày 23-12- 2021, Ú và chị Q tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, Ú cho rằng chị Q chưa ly hôn mà quen với người khác nên hai bên có cãi vã nhau.

Đến khoảng 01 giờ ngày 24-12-2021, Ú tức giận vì mâu thuẫn với chị Q và nhớ lại trước đây bị cháu Ngô Kim Y, sinh ngày 21-4-2006 (con của Ú và chị Q) tố cáo Ú hiếp dâm nên nảy sinh ý định giết chị Q, cháu Y. Ú lấy cây rựa đi sang nhà chị Q, cạy cửa sau vào nhà, Ú dùng rựa chém 07 nhát vào đầu, tay chị Q làm chị Q té ngã. Lúc này, cháu Y từ phòng ngủ bước ra, Ú sử dụng rựa chém 06 nhát vào đầu, tay cháu Y làm cháu Y té ngã. Khi thấy chị Q và cháu Y chảy nhiều máu, nằm dưới nền nhà bất tỉnh, Ú vào phòng ngủ ẵm cháu Ngô Kiều My, sinh năm 2017 (con của Ú và chị Q) sang nhà ông Ngô Văn Thương (cha của Ú), Ú nói với ông Thương “Tôi chém vợ, con tôi chết rồi” và gửi cháu My cho ông Thương giữ, để cây rựa trong nhà ông Thương và đến Công an xã PĐ tự thú. Chị Q và cháu Y được ông Thương đưa đến Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á Tây Ninh cấp cứu đến ngày 10-01-2022 cháu Y xuất viện, chị Q còn đang điều trị.

Tại Kết luận giám định số 371 ngày 17-01-2022 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Chất màu nâu đỏ dính trên con dao (dạng rựa) và chất màu nâu đỏ vị trí số 2, 3 hiện trường là máu người, AND các mẫu máu này cùng 01 kiểu gen nữ hoàn chỉnh đủ điều kiện truy nguyên (lưu kiểu gen tại Phân viện Khoa học hình sự).

Tại Kết luận giám định số 1632 ngày 04-4-2022 của Phân Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Kiểu gen lưu tại Phân viện Khoa học hình sự theo kết luận giám định số 371 ngày 17-01-2022 của Phân viện Khoa học hình sự trùng với kiểu gen của Trần Thị Q.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 81/2022/Tg ngày 10-01-2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Tây Ninh đối với Ngô Kim Y, kết luận:

Dấu hiệu chính qua giám định: 01 vết sẹo vùng chẩm bên trái, kích thước dài 2,5 x 0,4 cm; 01 vết sẹo mặt trước 1/3 dưới cẳng tay đến mặt gan - kẻ ngón IV, V mu bàn tay phải, kích thước 25 x 0,3 cm; 01 vết sẹo mặt gan ngón V bàn tay phải, kích thước 3,5 x 0,2 cm; 01 vết sẹo mu bàn tay trái, kích thước 6 x 0,3 cm; 01 vết sẹo kẻ ngón IV, V bàn tay trái, kích thước 4 x 0,2 cm; 01 vết ngón III, IV bàn tay trái, kích thước 2 x 0,2 cm; 01 vết sẹo mu đốt gần ngón IV bàn tay trái, kích thước 1,5 x 0,1 cm; 01 vết sẹo 1/3 giữa sau cẳng tay phải, kích thước dài 4 cm ngang từ 0,2 đến 1 cm; Gãy xương bàn V bàn tay phải ảnh hưởng chức năng gấp duỗi ngón tay, bàn tay; Gãy xương móc, xương tháp bàn tay phải; Gãy xương bàn III, IV tay trái không ảnh hưởng chức năng gấp duỗi ngón tay, bàn tay; Gãy xương tháp cổ tay trái.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Ngô Kim Y do thương tích gây nên hiện tại là:

25% (hai mươi lăm phần trăm).

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 91/2022/TgT ngày 19-4-2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Tây Ninh đối với Trần Thị Q, kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Biến dạng đầu bên phải; 01 vết sẹo từ vùng trán bên trái đến thái dương chấm phải, kích thước dài 30 cm ngang từ 0,1 đến 0,6 cm; 01 vết sẹo giữa đỉnh, kích thước 6 x 0,3 cm; 01 vết sẹo đỉnh bên trái, kích thước 2,5 x 0,4 cm; 01 vết sẹo vùng đỉnh chẩm, kích thước 1,5 x 0,7 cm; Sẹo mất 01 phần vành tai phải, kích thước 2,5 x 0,2 cm; Khuyết sọ trái thái dương đỉnh bên phải, kích thước cao 6,3 cm x rộng 9 cm x sâu 0,9 cm; Ở tổn thương não, kích thước cao 4,5 cm x rộng 5,4 cm x sâu 3,2 cm; 01 vết seo cô mu đốt gần ngón III bàn tay phải, kích thước dài 14 cm ngang từ 0,1 đến 1 cm; 01 vêt sẹo mặt sau trong 1/3 giữa căng tay trái, kích thước 10 x 0,3 cm; 01 vết sẹo mặt mu bàn tay trái, kích thước 5,5 x 0,4 cm; Gãy xương 1/3 dưới xương trụ tay trái còn dụng cụ kết hợp xương; Gãy xương bàn II bàn tay phải; Gãy đốt I ngón III bàn tay phải; Liệt tay trái và chân trái mức độ nặng.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trần Thị Q do thương tích gây nên hiện tại là:

93% (chín mươi ba phần trăm).

Quá trình điều tra, Ngô Văn A chưa thành khẩn khai báo, chưa ăn năn hối cải.

* Vật chứng thu giữ: Có bảng kê kèm theo.

* Về trách nhiệm dân sự: Chị Trần Thị Q yêu cầu bồi thường 550.000.000 đồng; cháu Ngô Kim Y yêu cầu bồi thường số tiền 100.000.000 đồng, Ngô Văn A chưa bồi thường.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 139/2022/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định:

Căn cứ vào điểm a, b, n khoản 1 Điều 123; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Ngô Văn A tù chung thân về tội “Giết người”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 24-12-2021.

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 590 của Bộ luật Dân sự;

Ghi nhận bị cáo Ngô Văn A tự nguyện đồng ý bồi thường thiệt hại cho bị hại và đại diện bị hại chi phí điều trị, các khoản khác tổng cộng 550.000.000 (năm trăm năm mươi triệu) đồng; bồi thường tổn thất tinh thần, chi phí điều trị cho cháu Ngô Kim Y 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.

Giải tỏa Lệnh kê biên tài sản số: 05/LKB-VPCQCSĐT ngày 23-5-2022, của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Tây Ninh.

Ngoài ra, bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại.

Ngày 01-9-2022 bị cáo Ngô Văn A đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 30-8-2022 đại diện hợp pháp của bị hại bà Phạm Thị L kháng cáo phần dân sự.

Quá trình tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Ngô Văn A đã rÚ đơn kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi được hỏi lại thì bị cáo lại quyết định giữ đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án sơ thẩm tuyên là quá nặng. Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với tội danh mà cấp sơ thẩm đã nhận định và tuyên xử. Tuy nhiên luật sư nêu ra các tình tiết giảm nhẹ, đề nghị giảm án cho bị cáo và cho rằng mức án Tòa sơ thẩm đã tuyên là quá cao.

Đại diện hợp pháp của bị hại bà Phạm Thị L vẫn giữ đề nghị tăng mức mức bồ thường thiệt hại cho người bị hại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Giết người” là đúng, bởi lẽ: Hành vi của bị cáo đã chém bà Q tổn thương cơ thể 93% và chém cháu Ngô Kim Y thương tích 25 %. Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự thì hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng điều này là không đúng quy định pháp luật. Về kháng cáo tăng tiền bồi thường, bị cáo thống nhất bồi thường cho người bị hại tổng số tiền 1.031.617.571 đồng nên cần chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Ngô Văn A và kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền bà Phạm Thị L để sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tính hợp lệ đơn kháng cáo của bị cáo Ngô Văn A, bà Phạm Thị L: Đơn kháng cáo của bị cáo Ngô Văn A và bà Phạm Thị L được làm trong thời hạn luật định. Do đó, đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xuất phát từ mâu thuẫn trong chuyện tình cảm vợ chồng nên vào đêm 24- 12-2021 Ngô Văn A đã chuẩn bị cây rựa đến nhà chị Trần Thị Q, thuộc ấp PĐ B, xã PĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, Ú sử dụng cây rựa cạy cửa sau vào nhà dùng rựa chém nhiều cái vào đầu, tay chị Q gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 93%, chém nhiều cái vào đầu, tay cháu Ngô Kim Y gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 25% trong khi cháu Y mới có 15 năm 08 tháng 03 ngày tuổi. Chị Q và cháu Y không chết là ngoài ý muốn của Ú. Dó đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt và kết án bị cáo Ngô Văn A phạm tội “Giết người” với các tình tiết định khung “Giết từ 02 người trở lên”, “Giết người dưới 16 tuổi”, “Có tính chất côn đồ” theo các điểm a, b, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người dân sinh sống tại khu vực. Xuất phát từ việc mâu thuẫn nhỏ trong chuyện tình cảm mà bị cáo đã dùng cây rựa chém nhiều cái vào đầu, tay là vùng trọng yếu cơ thể với tỷ lệ thương tật của các bị hại lần lượt 93%, 25% là quá cao và phạm tội đối với nhiều người. Về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì Tòa cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ quy định lần lượt tại điểm k khoản 1 Điều 52 và điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là đúng. Tuy nhiên, mức hình phạt tù chung thân mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với Ngô Văn A là trái quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự nên cần điều chỉnh lại cho phù hợp pháp luật.

[4] Đối với kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho người bị hai bà Q là bà Phạm Thị L đề nghị tăng mức bồi thường cho những bị hại với tổng số tiền 1.031.617.571 đồng và được Ngô Văn A thống nhất. Đây là sự tự nguyện không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hồi đồng xét xử ghi nhận sư thỏa thuận của bị cáo và bà Phạm Thị L.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Ngô Văn A và của người đại diện hợp pháp cho người bị hai bà Phạm Thị L, chấp nhận quan điểm giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Ngô Văn A và người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Phạm Thị L không phải chịu án phí phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ Điều 345, điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Văn A và đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phạm Thị L. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HSST ngày 17-8-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Áp dụng vào điểm a, b, n khoản 1 Điều 123; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52; Điều 39, Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn A 20 (hai mươi) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tạm giam ngày 24-12-2021.

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 590 của Bộ luật Dân sự;

Ghi nhận bị cáo Ngô Văn A tự nguyện đồng ý bồi thường thiệt hại cho những người bị hại số tiền 1.031.617.571 đồng (một tỷ, không trăm ba mươi mốt triệu, sáu trăm mười bảy ngàn, năm trăm bảy mươi mốt) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Giải tỏa Lệnh kê biên tài sản số 05/LKB-VPCQCSĐT ngày 23-5-2022, của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Tây Ninh.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Ngô Văn A để đảm bảo Thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Áp dụng Điều 12, Điều 23, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Ngô Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị hại không phải chịu án phí dân phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (19 - 4 - 2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 220/2023/HS-PT

Số hiệu:220/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về