Bản án về tội giết người số 203/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 203/2023/HS-PT NGÀY 14/04/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 14 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 100/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Văn P.Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 165/2022/HS-ST ngày 23/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Phạm Văn P , sinh năm 1997 tại Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú và nơi ở: phường BH, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Con ông Phạm Văn C, sinh năm 1976 và bà Đoàn Thị Bích N, sinh năm 1977; Bị cáo có vợ là Nguyễn Như Ng, sinh năm 1988 và chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt từ ngày 08/3/2022 cho đến nay. (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo:

Luật sư Mai Long Đ, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai. (Có mặt) (Ngoài ra, trong vụ án còn bị cáo Nguyễn Phương L, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, kháng nghị và không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 06/01/2021, Phạm Văn P rủ Nguyễn Phương L đến nhà của P ăn nhậu. Trong lúc ăn nhậu thì P đi ra đường trước nhà để đi vệ sinh và gọi điện thoại cho bạn thì thấy 01 người nam giới điều khiển xe mô tô có gắn ống bô nổ đi ngang qua nhà P. Đến khoảng 00 giờ 10 ngày 07/01/2021, ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1976, phường BH, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai điều khiển xe mô tô biển số 60M8-7394 chở theo 02 con là Nguyễn Minh D, sinh năm:

2010 và Nguyễn Minh L, sinh năm: 2007 từ nhà chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1957, phường BH, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ra đến ngã ba đường hẻm cách nhà P khoảng 06m. Nghe tiếng bô nổ rất to nên P đứng ra giữa đường, do trời tối và do P đứng giữa đường nên ông C đã phanh xe gấp làm xe và người bị mất thăng bằng ngã nghiêng xuống đường. Lúc này, P lấy 01 khúc cây gỗ dài khoảng 1,6 mét ở hàng rào đối diện nhà P tiến lại gần ông C nói “khuya rồi, thích nẹt bô không”, ông C nói lại “có nẹt bô đâu” thấy P cầm cây, nên ông C lấy 01 sợi dây xích dài khoảng 78cm trên xe của mình (thường dùng để khóa bánh xe) cầm trên tay phải đánh 01 cái trúng cổ tay trái của P (không gây thương tích gì). P cầm khúc cây gỗ đánh 01 cái từ phải qua trái, trúng vào vùng vai trái của ông C. Ông C giật được khúc cây gỗ vứt xuống đường rồi lao vào giằng co, vật nhau với P. Lúc này, P hô lớn “Trộm chó, trộm chó” thì Lân từ trong sân nhà P nghe thấy và chạy ra đường. Thấy P và ông C đang nằm vật nhau, Lân đi đến nhặt khúc cây gỗ cầm trên hai tay định đánh ông C thì cháu Nguyễn Minh Luân chạy đến dùng hai tay ôm Lân từ phía sau lưng để giữ Lân lại, còn cháu Nguyễn Minh Duy chạy đến trước mặt Lân ngăn cản. Lân cầm cây gỗ đánh 01 cái vào môi trên của cháu Duy gây chảy máu và đánh 01 cái vào lưng cháu Duy. Bị đánh, cháu Duy và cháu Luân bỏ chạy vào nhà chị Nguyễn Thị Lớp. Khi thấy ông C và P vẫn còn giằng co, vật nhau qua lại thì Lân cầm khúc cây gỗ bằng hai tay đánh 01 cái theo hướng từ trên xuống dưới và từ trái qua phải trúng vào đầu ông C gây thương tích. Bị Lân đánh, ông C la lên một tiếng “á” rồi đẩy P ra bỏ chạy. P tiếp tục đuổi theo ông C khoảng 30 mét, nhưng do ông C chạy vào nhà chị Lớp nên P không đuổi nữa mà quay về nhà, còn Lân vứt cây gỗ tại hiện trường rồi đi vào nhà của P. Thấy đầu ông C bị chảy nhiều máu nên mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Nai.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0029/TgT/2021 ngày 12/01/2021 của Giám định viên Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai kết luận thương tích của ông Nguyễn Minh C như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Tổn thương vỡ lún sọ trán đỉnh trái kích thước 02x08cm, chưa đo được điện não (Áp dụng Chương 1, mục I.4.4). Tỷ lệ 25%.

- Gãy cánh lớn xương bướm trái kích thước 07cm, chưa đo được điện não (Áp dụng Chương 1, mục I.3.2). Tỷ lệ 21%.

- Tổn thương nứt (gãy) xương gò má trái (Áp dụng Chương 11, mục I.2). Tỷ lệ 08%.

- Phần vết thương thái dương trán đỉnh trái ngoài chân tóc kích thước 06x0,2cm (Áp dụng Chương 8, mục I.1). Tỷ lệ 06%.

- Phần vết thương thái dương trán đỉnh trái trong chân tóc kích thước 04x0,2cm (Áp dụng Chương 8, mục I.1). Tỷ lệ 01%.

2. Kết luận:

Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Minh C - 1976 áp dụng theo phương pháp cộng tại thông tư là: 49% (Bốn mươi chín phần trăm).

3. Kết luận khác:

- Vật gây thương tích:

+ Chấn thương đầu: Vật tày có cạnh.

+ Chấn thương đầu mặt: Vật tày.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0269/TgT/2021 ngày 12/5/2021 của Giám định viên Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai kết luận thương tích của ông Nguyễn Minh C như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Tổn thương nứt (gãy) xương gò má trái đã được giám định tỷ lệ 08%.

- Phần vết thương thái dương trán đỉnh trái ngoài chân tóc (đã liền sẹo) đã được giám định tỷ lệ 06%.

- Phần vết thương thái dương trán đỉnh trái trong chân tóc (đã liền sẹo) đã được giám định tỷ lệ 01%.

- Đối với tổn thương vỡ lún sọ trán đỉnh trái đã được giám định tỷ lệ 25% nay giám định bổ sung phần vỡ lún sọ trán đỉnh trái đã điều trị phẫu thuật hiện để lại khuyết sọ vùng trán đỉnh trái kích thước 5,8x6,8cm, đáy phập phồng (Áp dụng Chương 1, mục I.5.3). Tỷ lệ 31%.

- Gãy cánh lớn xương bướm trái đã được giám định tỷ lệ 21% nay được giám định bổ sung tỷ lệ 25%.

- Tổn thương não vùng trán trái kích thước 1,1x0,7cm (Áp dụng Chương 1, mục III.1). Tỷ lệ 21%.

- Tổn thương tụ máu ngoài màng cứng vùng trán trái đã điều trị hiện không còn hình ảnh máu tụ (Áp dụng Chương 1, mục III phần ghi chú). Tỷ lệ 05%.

- Tổn thương xuất huyết dưới nhện vùng trán trái đã điều trị hiện không còn hình ảnh máu tụ (Áp dụng Chương 1, mục III phần ghi chú). Tỷ lệ 08%.

- Sẹo mổ dẫn lưu thái dương trái kích thước 01x0,5cm (Áp dụng Chương 8, mục I.1). Tỷ lệ 01%.

2. Kết luận:

Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định bổ sung của nạn nhân Nguyễn Minh C - 1976 áp dụng theo phương pháp cộng tại thông tư là:

70% (Bảy mươi phần trăm).

* Tại Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 0329/VG/2021 ngày 27/4/2021 của Giám định viên Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai kết luận cơ chế và vật gây thương tích của ông Nguyễn Minh C như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định hồ sơ bệnh án và tài liệu hiện có:

- Vào khoảng 00 giờ 10 phút, ngày 07/01/2021, nạn nhân Nguyễn Minh C bị đánh gây thương tích.

- Tổn thương chính:

+ Vết thương trán lên chẩm (trán thái dương đỉnh trái), vỡ lún sọ trán đỉnh trái kích thước 02x08cm, gãy cánh lớn xương bướm trái kích thước 07cm), tụ máu ngoài màng cứng vùng trán trái.

+ Xây sát da không rõ hình vùng trán và đuôi mày trái, nứt cung gò má trái.

2. Kết luận theo nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định:

- Vết thương trán lên chẩm (trán thái dương đỉnh trái), vỡ lún sọ trán đỉnh trái kích thước 02x08cm, gãy cánh lớn xương bướm trái kích thước 07cm, tụ máu ngoài màng cứng vùng trán trái. Tổn thương này do vật tày có cạnh tác động trực tiếp vào vùng trán thái dương đỉnh trái với lực rất mạnh theo hướng từ trên xuống dưới và từ trái qua phải gây ra tổn thương vỡ lún sọ trán đỉnh trái và tụ máu ngoài màng cứng vùng trán trái và lực dẫn truyền gây gãy cánh lớn xương bướm trái. Các bề mặt hoặc vị trí của đầu tày cây gỗ mà Cơ quan CSĐT Công an thành phố Biên Hòa gửi đến giám định có thể gây ra tổn thương này.

- Xây sát da không rõ hình vùng trán và đuôi mày trái, nứt cung gò má trái. Tổn thương này do vật tày tác động trực tiếp vào vùng cung gò má trái với lực vừa đủ mạnh theo hướng từ trái qua phải và hơi chếch từ trước ra sau hoặc do vùng cung gò má trái va đập với vật tày có diện gồ ghề. Các bề mặt cây gỗ mà Cơ quan CSĐT Công an thành phố Biên Hòa gửi đến giám định có thể gây ra tổn thương này.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 165/2022/HS-ST ngày 23 tháng 12 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn P phạm tội “Giết người”.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 15 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn P 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/3/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Nguyễn Phương L 12 năm tù, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/01/2023, bị cáo Phạm Văn P có đơn kháng cáo cho rằng mức án quá nặng, không đúng với bản chất, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, bị cáo hô trộm chó hoàn toàn không có mục đích kêu gọi bị cáo Lân đánh bị hại Châu, bị cáo hoàn toàn không có hành vi nào bàn bạc, xúi giục, rủ rê, hỗ trợ, giúp sức đối với hành vi phạm tội của bị cáo Lân. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha và 02 em vừa chết do bệnh, phải chăm sóc bà nội 90 tuổi, mẹ bị cáo không có việc làm, vợ bị biến chứng thai sản vì vậy đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh của bị cáo và cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Phạm Văn P giữ nguyên nội dung kháng cáo như nêu trên. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như án sơ thẩm mô tả, tuy nhiên bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo chỉ cấu thành tội gây rối trật tự công cộng, không đồng phạm với Lân về tội giết người, bị cáo hô trộm chó không phải là gọi cho Lân ra để đánh anh Châu. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; cha và em bị cáo mới chết (nhà có 3 anh em thì chết hai), vợ bị cáo bị biến chứng thai sản. Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm P biểu: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì đủ cơ sở kết luận giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì nhưng bị cáo đã có hành vi gây sự với bị hại, chặn đường, cầm cây gỗ đánh bị hại, khi bị cáo và bị hại xô xát vật lộn với nhau thì bị cáo đã hô lên trộm chó để bị cáo Lân chạy ra giúp sức với bị cáo đánh bị hại Châu. Bị cáo Lân đã sử dụng cây gỗ đánh vào đầu bị hại Châu, hậu quả làm Châu bị tổn thương cơ thể 70%. Việc bị hại không chết là do được cấp cứu kịp thời. Do đó, bị cáo P phải chịu chung hậu quả với bị cáo Lân. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội giết người với tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân của bị cáo, đánh giá vai trò của bị cáo là đồng phạm, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 10 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

*Luật sư bào chữa cho bị cáo P biểu:

Các chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện bị cáo không đồng phạm với Lân trong vụ án giết người vì giữa các bị cáo không có sự bàn bạc với nhau trước đó. Việc bị cáo Lân dùng cây gỗ đánh bị hại Châu thì bị cáo P không biết vì lúc đó P đang vật lộn với anh Châu. Việc bị cáo P hô trộm chó là để mọi người hỗ trợ bắt Châu vì nghi là trộm chó vì anh Châu có mang xích sắt. Giữa bị cáo P và anh Châu không có mâu thuẫn gì, bị cáo không kêu Lân ra giúp bị cáo đánh anh Châu (không kêu cụ thể tên Lân ra giúp bị cáo đánh anh Châu). Khi P kêu trộm chó thì Lân ra lần đầu và có xô xát với các con anh Châu sau đó Lân đi vào nhà do không thấy P nên ra lần thứ 2 thấy P và anh Châu vật lộn thì Lân mới cầm cây gỗ đánh anh Châu (bị cáo P không biết). Hành vi của bị cáo chỉ cấu thành tội gây rối trật tự công cộng. Bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo đúng về hình thức, nội dung, đúng hạn luật định nên kháng cáo được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm:

[2] Vào khoảng 00 giờ 10 phút, ngày 07/01/2021, trong lúc đi vệ sinh bị cáo P thấy anh Châu chạy xe máy có gắn ống bô nổ đi qua nhà P nên bị cáo đứng ra chặn đường và xô xát với anh Châu, sau đó bị cáo sử dụng cây gỗ dài 160cm, hình chữ nhật, kích thước 9,5cm x 4,5cm cầm bằng hai tay đánh 01 cái từ phải qua trái trúng vào vai trái của anh Châu. Anh Châu giật được cây gỗ vứt đi và ôm vật nhau với P, do đó P hô lớn “Trộm chó, trộm chó”. Nghe tiếng hô của P thì Nguyễn Phương L từ trong nhà P chạy ra thấy P và anh Châu đang nằm vật nhau, Lân chạy đến nhặt khúc cây gỗ nêu trên thì các cháu Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Minh duy ngăn cản. Lân cầm cây gỗ đánh 01 cái vào môi trên cháu Duy gây thương tích 04% và đánh 01 cái vào lưng cháu Duy (không gây thương tích), cháu Duy và Luân bỏ chạy. Lân tiếp tục cầm khúc gỗ tiến đến vị trí P và anh Châu vật nhau đánh 01 cái theo hướng từ trên xuống dưới và từ phải qua trái trúng vùng đầu của anh Châu, hậu quả làm anh Châu bị lún sọ trán đỉnh trái, gãy lớn xương bướm trái, tụ máu ngoài màng cứng vùng trán trái, nứt cung gò má trái gây thương tích 70%.

[3] Hành vi của bị cáo P và Lân là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, giữa các bị cáo và bị hại không quen biết nhau, không có mâu thuẫn gì trước đó chỉ vì nghe tiếng bô xe máy của anh Châu nổ to mà bị cáo P ra chặn đường, dùng cây gỗ đánh anh Châu và vật lộn với anh Châu sau đó bị cáo hô lớn trộm chó, trộm chó để báo cho Lân biết chạy ra đánh anh Châu. Bị cáo Lân sử dụng cây gỗ đánh 01 cái vào đầu anh Châu gây thương tích 70%, việc bị hại không chết là do đươc cấp cứu kịp thời. Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, hai bị cáo tuy không có bàn bạc từ trước nhưng đều có chung mục đích là đánh anh Châu. Cụ thể, bị cáo P đánh anh Châu trước, sau đó hô trộm chó để bị cáo Lân chạy ra hỗ rợ đánh anh Châu nên cả hai bị cáo phải chịu chung hậu quả về thương tích của anh Châu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo P kháng cáo cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định không đúng với bản chất, không đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, bị cáo hô trộm chó hoàn toàn không có mục đích kêu gọi bị cáo Lân đánh bị hại Châu. Xét nội dung kháng cáo này của bị cáo P là không có cơ sở chập nhận, bởi lẽ quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm không có chứng cứ nào thể hiện anh Châu là người trộm chó mà chính bị cáo là người chặn đường và dùng cây đánh anh Châu và kêu gọi bị cáo Lân bằng câu hô lớn “trộm chó, trộm chó” để bị cáo Lân đánh anh Châu.

[5] Đối với nội dung kháng cáo của bị cáo P cho rằng, mức án quá nặng, thấy rằng: Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho bị hại 110.000.000 đồng, được bị hại bãi nại, có hoàn cảnh gia đình khó khăn (có xác nhận của chính quyền địa phương ) đặc biệt, bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm, không trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo P, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị chuyển tội danh bị cáo sang tội gây rối trật tự công cộng là không có căn cứ.

[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại phiên tòa đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[8] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo P không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[10] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phạm Văn P.

Sửa Bản án sơ thẩm về quyết định hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn P.

2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 15 Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn P 07 năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/3/2022.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Văn P không phải chịu.

5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 203/2023/HS-PT

Số hiệu:203/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về