Bản án về tội giết người số 201/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 201/2022/HS-PT NGÀY 08/06/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 149/2022/TLPT-HS ngày 12 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Võ Thành D về tội “Giết người Do có kháng cáo của bị cáo, bà Võ Thị Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 02/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

Bị cáo có kháng cáo:

Võ Thành D (tên gọi khác: Đ), sinh năm 1983; tại tỉnh Phú Yên; nơi cư trú: thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Phúc S, sinh năm 1953 và bà Ngô Thị Hồng P, sinh năm 1965; có vợ Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1990 và 01 con, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/4/2021, Có mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

- Người bào chữa của bị cáo Võ Thành D: Luật sư Ngô Minh T - Văn phòng luật sư số 1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Địa chỉ: thành phố T, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Bị hại: Anh Huỳnh Ngọc T (chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Ông Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1969. Nơi cư trú: tỉnh Phú Yên.

2/ Bà Võ Thị Đ, sinh năm 1974. Nơi cư trú: tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Ngọc T: Bà Võ Thị Đ.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đại diện hợp pháp của người bị hại: Luật sư Lê Gia V - Công ty Luật TNHH MTV P, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên. Địa chỉ: thành phố T, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 17/4/2021, Võ Thành D và Trần Minh T1 đang ngồi nhậu tại quán số 09 T, Phường 1, thành phố T, tỉnh Phú Yên thì Huỳnh Ngọc T đến quán, do quen T1 nên T vào ngồi chung bàn, trong lúc ăn nhậu thì D và T xảy ra cãi nhau, D bực tức bỏ đi về, T đi theo đến công viên D thì quàng tay lên vai D, nghĩ T định đánh nên D hất tay T ra và nảy sinh ý định đánh T, D về nhà lấy 02 con dao Thái Lan giấu sau lưng quần đi đến công viên D. Do không thấy T, D quay lại nên T1 đi về, khi đến công viên D thì thấy T đang nói chuyện với nhóm của chị Lê Thị Minh Nam nên đến nói chuyện với T.

D cầm 02 con dao đến nói qua lại với T, T1 sợ đánh nhau nên can bảo D đi về. D quay lưng đi về thì nghe T đòi đánh nên D quay lại tay phải cầm dao dài 26,56 cm đâm 01 nhát vào bụng T làm lưỡi dao bị gãy dính lại trong bụng. T1 can ngăn bảo D đi về. D ném cán dao và con dao còn lại ở bãi có công viên rồi về nhà ngủ, T1 cũng về nhà ngủ. T đi đến nằm trên bậc thềm phòng bảo vệ của công viên, đến sáng ngày 18/4/2021 người dân phát hiện T đã chết nên báo Công an. Khoảng 08 giờ cùng ngày, ông Võ Phúc S (cha D) nghe nói có người chết tại công viên nên nói với D thì D thừa nhận người chết là do D dùng dao đâm nên ông S động viên D đến Công an tỉnh Phú Yên đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 88/TgT ngày 06/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Nguyên nhân chết của Huỳnh Ngọc T mất máu cấp do rách thủng động mạch chủ bụng; do vật sắc nhọn tác động trực tiếp vào cơ thể.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 10/2022/HSST ngày 02/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Võ Thành D phạm tội “Giết người”.

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Phạt: Bị cáo Võ Thành D 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/4/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về bồi thường thiệt hại, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 15/03/2022, bà Võ Thị Đ là mẹ của bị hại kháng cáo tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

Ngày 16/3/2022, bị cáo Võ Thành D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm, nhưng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như trong đơn kháng cáo nên bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện hợp pháp của bị hại - bà Võ Thị Đ vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Võ Thành D bởi những lý do như sau: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong lúc uống bia, nhưng bị cáo D đã nhẫn tâm đâm chết bị hại, bị cáo D còn cho rằng bị hại đánh bị cáo D trước, nhưng thực tế bị hại không đánh bị cáo D, anh Trần Minh T1 người làm chứng can ngăn, nhưng bị cáo D là người cộc cằn, hung hăng và quyết tâm thực đâm chết bị hại, thể hiện sự quyết tâm phạm tội đến cùng, cường độ tấn công mạnh, dứt khoát, quyết liệt nên con dao bị gãy cán nằm lại bên trong bụng của bị hại. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (phạm tội có tính chất côn đồ) với mức hình phạt 15 năm tù là chưa tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo và gia đình của bị cáo không thể hiện sự chia sẻ, động viên, an ủi và bày tỏ sự hối lỗi trước mất mát của gia đình bị hại, gia đình bị cáo chỉ có mặt một lần tại lễ tang để đưa số tiền 110.000.000 đồng là quá ít so với những tổn thất lớn lao mà gia đình bị hại phải gánh chịu. Do đó, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng ” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xét xử phúc thẩm tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Võ Thành D.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về vụ án cho rằng: về tố tụng, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, về nội dung, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra thì mức án mà cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 15 năm tù là có căn cứ. Do vậy kháng cáo của bị cáo xin giảm hình phạt và kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại tăng hình phạt không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Ngô Minh Tùng bào chữa cho bị cáo phát biểu tranh luận: Bị cáo D có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 năm tù là quá cao; đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Đối với kháng cáo của đại diện người bị hại tăng hình phạt là không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận.

Luật sư Lê Gia Vĩnh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp của bị hại phát biểu tranh luận: Bị cáo D đã có ý định giết người từ trước nên mới chuẩn bị con dao đi tìm bị hại mặc dù đã được can ngăn nhưng vẫn cố tình đâm vào bụng bị hại, thể hiện sự quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng, nên đề nghị Hội đồng xét xử tăng mức hình phạt lên 18 đến 20 năm tù để răn đe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chỉ vì mâu thuẫn với anh T trong lúc ăn uống tại quán lúc 21 giờ 15 phút ngày 17/4/2021, mà bị cáo D đã về nhà lấy 02 con dao Thái Lan và quay lại đi tìm anh T, khi phát hiện anh T ở công viên D, thành phố T, thì giữa D và T xảy ra mâu thuẫn, khi được anh T1 can ngăn D quay về nhưng nghe lời T thách đố nên D quay lại dùng dao có lưỡi dài 26,56 cm đâm một nhát vào bụng anh T khiến lưỡi dao gãy mắc trong bụng, D vứt cán dao và bỏ mặc anh T nằm một mình trong công viên. Đến sáng ngày 18/4/2021, người dân phát hiện anh T đã chết, nguyên nhân là do D đâm rách thủng động mạch chủ bụng bị mất máu cấp.

[2] Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Thành D phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung “có tính chất côn đồ ” (có khung hình phạt từ 12 đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình) theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo được hưởng 04 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 là: Bị cáo tác động gia đình và mẹ của bị cáo đã bồi thường được một phần thiệt hại mà gia đình bị hại yêu cầu; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã tỏ ra ăn năn hối cải và thành khẩn khai báo cụ thể rõ ràng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét 03 tình tiết giảm nhẹ như trên với hậu quả anh T đã tử vong và xử phạt bị cáo 15 năm tù là có tác dụng răn đe và phòng ngừa.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Võ Thành D yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là quá nặng. Như đã phân tích ở phần [2], Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tất cả 03 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng nào. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; đây là lần đầu tiên phạm tội; có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, S khoản 1 Điều 51 và nhiều tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự như bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn; nhưng đại diện hợp pháp của bị hại không xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mà còn kháng cáo tăng nặng hình phạt. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cũng không tác động gia đình bồi thường thêm cho gia đình bị hại; do vậy tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Xét kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại - bà Võ Thị Đ yêu cầu tăng hình phạt về tội “Giết người” đối với bị cáo D, vì có tình tiết tăng nặng; Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo D bị truy tố tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Mặc dù được anh T1 can ngăn nhiều lần, nhưng bị cáo vẫn kiên quyết đâm cho được bị hại, chứng tỏ bị cáo quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng. Tuy nhiên, bị cáo D có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 năm tù là tương xứng, đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa; nên Hội đồng xét xử thấy không có cơ sở tăng hình phạt.

[5] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Võ Thành D không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thành D và đại diện hợp pháp của bị hại - bà Võ Thị Đ; giữ nguyên phần hình phạt Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HSST ngày 02/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Thành D 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Giết người Thời hạn tù tính từ ngày 18/4/2021.

2/ Về án phí: Bị cáo Võ Thành D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (08/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 201/2022/HS-PT

Số hiệu:201/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về