TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 194/2022/HS-PT NGÀY 08/6/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 153/2022/TLPT-HS ngày 22/4/2022 do bị cáo kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 15/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1612/2022/QĐXXPT-HS ngày 18/5/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với:
Bị cáo : Trần K (Tên gọi khác: C), sinh ngày 03 tháng 4 năm 1966 tại tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm biển; nơi cư trú: tỉnh Quảng Ngãi; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần L (Tên gọi khác Trần C) đã chết và bà Lê Thị S (Tên gọi khác Lê Thị L) đã chết; có vợ là Nguyễn Thị G, sinh năm 1962, có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh ngày 11/11/2005; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2021; bị cáo K có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa theo luật định cho bị cáo Trần K: Luật sư Trương Nguyễn Lan N - Văn phòng luật sư Q, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi, Luật sư Nhi có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Bùi N, sinh năm 1956 (đã chết).
Người đại diện theo pháp luật của bị hại:
1. Ông Bùi C, sinh năm 1930;
2. Bà Đỗ Thị Kim X, sinh năm 1962;
3. Chị Bùi Thị Đ, sinh năm 1983;
4. Anh Bùi Văn T, sinh năm 1984;
5. Anh Bùi Văn H, sinh năm 1993;
6. Chị Bùi Thị T, sinh năm 1985;
Cùng địa chỉ: tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
1 Ông Bùi C, chị Bùi Thị Đ, anh Bùi Văn T, chị Bùi Thị T ủy quyền cho bà Đỗ Thị Kim X theo Giấy ủy quyền ngày 11/5/2021, bà X, chị Đ, anh H vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan : 1. Cháu Bùi Đỗ Thanh D, sinh ngày 02/01/2008.
Đại diện theo pháp luật của cháu D là bà Đỗ Thị Kim X, vắng mặt;
2. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1962; địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
3. Chị Đỗ Thị Thoại N, sinh năm 1993; địa chỉ: tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- T các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 21/4/2021, Trần K ra thùng chứa nước sinh hoạt khu vực phía sau nhà K thì thấy ông Bùi N đứng ở khu vực đường đi bên ngoài tường rào được xây bằng gạch nhìn vào bên trong khu vực nhà của K. Trước đó, vì nghi ngờ ông N có quan hệ bất chính với vợ của mình là bà Nguyễn Thị G nên K nghi ngờ ông N nhìn vào nhà K xem bà G có nhà hay không. Bực tức, Trần K cầm 01 ca nhựa màu đỏ có cán đang sử dụng múc nước ném mạnh về phía ông Bùi N, ca nước trúng vào tường rào r i bể thành nhiều mảnh, biết bị ném K ném nên ông N bực tức bỏ đi. Sau khoảng 05 phút, ông Bùi N cầm 01 khúc cây gỗ tròn, dài 2,33m đi đến cổng trước nhà của K, vừa đi ông N vừa đập khúc cây gỗ vào hàng rào nhà K vừa nói nhiều lần “Mày ra đây thằng ngốc, thằng C mày ra đây, bữa nay tao giết mày” và định vào bên trong nhưng vì cổng đã khóa nên ông Bùi N không vào được. Ông N đứng trước nhà K và cầm cây gỗ đập vào hàng rào lưới B40 gọi K ra. K bực tức đến mở tủ nhựa đựng quần áo trong nhà lấy 01 con dao dài 18,5cm, cán dao dài 10cm và lưỡi dao dài 8,5cm, loại dao bấm có lưỡi gấp gọn bên trong cán, bỏ vào túi áo ngực đi ra đứng trong vườn trước nhà cách hàng rào lưới B40 khoảng gần 02 mét. Ông N đứng ngoài đường đất đối diện K, K nói “Mày làm cái kiểu gì lạ vậy N, mày làm gì dữ vậy N” thì ông N vừa nói “Mày ra đây” vừa cầm cây gỗ đánh khoảng 2 đến 3 cái từ trên xuống hướng vào trong sân nhà n i K đang đứng, K cúi người xuống thấp để tránh nên cây gỗ ông N đánh xuống chỉ trúng phía trên hàng rào lưới B40 và bị K dùng 2 tay chụp nắm ngọn cây gỗ nên K cúi thấp người giằng co, kéo cây gỗ xuống và áp sát người vào lưới B40 làm ông N đang nắm một đầu cây gỗ ngoài hàng rào lưới B40 bị kéo sát hàng rào. Ông N nắm một đầu cây gỗ và đứng 2 chân lên phần tường xây cao cách mặt đường 0,45m bên dưới lưới B40, lộ phần c thể từ vùng ngực trở lên sát lưới B40. Lúc này tay trái K nắm đầu cây gỗ, tay phải lấy dao từ trong túi áo bấm lưỡi dao cho bật ra, K đứng hai chân lên phần tường xây bên dưới lưới B40, tay phải K cầm dao và hướng lưỡi dao đâm chéo từ phải qua trái 1 cái trúng vào ngực bên phải của ông N, rồi K rút nhanh dao tiếp tục đâm mạnh hướng lưỡi dao thẳng về trước trúng ngực trái ông N. Bị đâm, ông N thả cây gỗ, bước lùi từ trên tường xây dưới hàng rào lưới B40 xuống đường đất, đi loạng choạng và gục chết.
Kết luận giám định tư pháp: - Kết luận giám định số 387/KLGĐ-PC09 ngày 25/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, xác định nguyên nhân chết của ông Bùi N và c chế hình thành dấu vết trên tử thi: + Vết thư ng ở vùng ngực bên trái gây thủng tim, mất nhiều máu choáng không phục hồi dẫn đến chết; + Vết thư ng thủng da cơ ở vùng ngực bên trái là do vật sắc nhọn, một lưỡi cắt tác động tương tác với lực mạnh theo hướng từ trước ra sau, xiên từ trên xuống dưới, từ phải qua trái tạo nên; + Vết thư ng thủng da cơ ở vùng ngực bên phải là do vật sắc nhọn, một lưỡi cắt tác động tương tác với một lực nhẹ theo hướng từ trước ra sau tạo nên; + Hai vết xây sát da ở vùng ngực bên phải và vết xây sát da ở mặt trước đùi phải là do vật tày diện hẹp, bề mặt nhẵn tác động tương tác theo hướng từ trước ra sau tạo nên.
- Kết luận giám định số 410/KLGĐ-PC09 ngày 15/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi xác định: Chất màu nâu đỏ bám dính trên con dao gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu O; Chất màu nâu đỏ bám dính trên đầu cây gỗ gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu O; Chất màu nâu đỏ bám dính trên áo thun màu trắng gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu O; Chất màu nâu đỏ ở vị trí số 1 và số 2 tại hiện trường vụ án, gửi giám định đều là máu người và đều thuộc nhóm máu O; Chất màu nâu đỏ thu trên lưới B40 của nhà ông Trần K gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu O; Mẫu máu thu của tử thi Bùi N gửi giám định thuộc nhóm máu O; Mẫu máu thu của Trần K gửi giám định thuộc nhóm máu O; Chất bám trên cây gỗ tròn gửi giám định là s n, màu xanh dư ng và cùng loại với mẫu s n màu xanh dư ng thu ở lưới B40 nhà Trần K.
- Kết luận giám định pháp y tâm thần số 858/KLGĐ ngày 15/10/2021 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đối với Trần K xác định: Trước thời điểm gây án; tại thời điểm gây án và thời điểm hiện tại: + Về y học: Rối loạn hoang tưởng (F22.0) kèm sử dụng rượu gây hại (F10.1). + Về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 15/3/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi quyết định:
1. Tuyên bố bị cáo Trần K phạm tội “Giết người” - Áp dụng Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51;
khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần K 11 (Mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 22/4/2021).
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Trần K bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại Bùi N 255.500.000 (Hai trăm năm mươi lăm triệu năm trăm nghìn) đồng , khấu trừ số tiền 70.000.000 (Bảy mươi triệu) đồng đã bồi thường trước. Bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 185.500.000 (Một trăm tám mươi lăm triệu năm trăm nghìn) đồng.
Buộc bị cáo Trần K phải cấp dưỡng nuôi cháu Bùi Đỗ Thanh D (con của bị hại Bùi N) mức cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 4 năm 2021 cho đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Khoản tiền cấp dưỡng này do bà Đỗ Thị Kim X nhận.
Buộc bị cáo Trần K phải cấp dưỡng cho cụ Bùi C (cha của bị hại Bùi N) mức cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng từ tháng 4 năm 2021 đến khi cụ Bùi C chết.
3. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên tịch thu và tiêu hủy:
- 01 (một) mảnh nhựa màu đỏ kích thước (12 X 12)cm; 01 (một) phần ca nhựa màu đỏ bị bế có cán dài 8,5cm; 01 (một) con dao có lưỡi bằng kim loại dài 8,5cm có chữ “USA”, cán dao bằng kim loại dài 10cm, có ba trụ tròn bằng kim loại và một miếng bằng nhựa trên đó có một hình tròn bên trong có la bàn; 01 (một) áo thun màu trắng phía sau có thêu logo “GAP”; 01 (một) áo sơ mi dài tay màu xanh dương (Tất cả được niêm phong trong túi có mã số NSI 1908982);
- 01 (một) cây gỗ tròn dài 2,33m, đường kính đầu lớn 4,4cm, đường kính đầu nhỏ 2,5cm (T biên bản về việc giao nhận vật chứng ngày 11/3/2022 giữa Công an tỉnh Quảng Ngãi và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi) 4. Về án phí: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 23 Nghi quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định vê mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; 9.275.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng định kỳ. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chậm thi hành thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi suất theo qui định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với khoản tiền và thời gian chậm thi hành án, cho đến khi thi hành xong. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
- Bị cáo Trần K kháng cáo xin giảm mức bồi thường thiệt hại, mức cấp dưỡng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Trần K bổ sung yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giảm cho bị cáo một phần hình phạt vì sức khỏe yếu và muốn sớm trở về nuôi dạy con còn nhỏ.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, các Thẩm phán, thành viên Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên toàn bộ quyết định của bản án s thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu trong hồ s vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo K thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm xác định là: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 21/4/2021, do ghen tuông nên khi nhìn thấy ông N đi ngoài đường phía ngoài tường rào nhà mình, bị cáo Trần K đã ném ca nhựa đang sử dụng múc nước về phía ông N nhưng không trúng. Ông N bực tức cầm 01 khúc cây gỗ tròn, dài 2,33m đi đến cổng trước nhà của bị cáo K, hai bên cãi nhau và xảy ra xô xát, bị cáo nắm một đầu cây của ông N kéo về phía mình làm ông N áp sát người vào hàng rào lưới B40, tay phải bị cáo lấy con dao từ trong túi áo bấm lưỡi dao cho bật ra và hướng lưỡi dao đâm chéo từ phải qua trái 1 cái trúng vào ngực bên phải của ông N gây thủng da cơ , rồi bị cáo rút nhanh dao ra tiếp tục đâm mạnh hướng lưỡi dao thẳng về trước trúng vào ngực bên trái của ông N 1 cái gây thủng tim, hậu quả ông gàn chết. Kết luận giám định số 387/KLGĐ-PC09 ngày 25/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi xác định nguyên nhân chết của ông Bùi N là do vết thu ng ở vùng ngực trái gây thủng tim, mất nhiều máu choáng không phục hồi dẫn đến chết.
Xét, K chỉ vì ghen tuông vô cớ mà ném ca nước vào ông N; ông N chỉ cầm cây gỗ đứng ngoài hàng rào lưới B40 cãi nhau với K và quơ vu vơ cây gậy không có khả năng gây thương tích cho K, nhưng K vẫn dùng dao nhọn là loại hung khi nguy hiểm đâm liên tiếp 2 nhát vào 2 vùng ngực của ông N gây thủng da cơ , thủng tim làm ông Bùi N gục chết tại chỗ; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố K phạm “Tội giết người” có tính chất côn đồ theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng tội, đúng khung hình phạt.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo bổ sung xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo K, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy“Tội giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Tòa án cấp sơ thẩm xét K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại; bản thân bị cáo bị rối loạn hoang tưởng (F22.0) kèm sử dụng rượu gây hại (F10.1), thời điểm gây án bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi; bị cáo có cha đẻ tham gia Dân công hỏa tuyến; mẹ đẻ được công nhận là người có công với cách mạng; 2 người chị ruột được xác nhận trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ, bị địch bắt tù đày nên áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo 12 năm tù là mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp, không nặng nên không có c sở để xét giảm mức hình phạt cho bị cáo.
[3] Xét kháng cáo xin giảm mức bồi thường thiệt hai, mức cấp dưỡng của bị cáo K, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu K bồi thường thiệt hại và cấp dưỡng nuôi cha và con bị hại tổng số tiền 575.800.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận số tiền 255.500.000 đồng gồm thiệt hại do tổn thất tinh thần 149.000.000 đồng (là phù hợp khoản 2 Điều 591 Bộ luật dân sự); chi phí mai táng có hóa đ n, chứng từ như tiền thuê xe chở thân nhân ông Bùi N từ Bà Rịa - Vũng Tàu ra Quảng Ngãi nhận xác và xe vận chuyển ngược lại 25.000.000 đồng; tiền dịch vụ mai táng, huyệt mộ 80.000.000 đồng; che vòm bạt 1.500.000 đồng mà không chấp nhận khoản tiền chi phí ăn uống trong những ngày tang lễ 8.500.000 đồng và thu nhập bị mất của bà X là phù hợp, đã có lợi cho bị cáo. Khoản tiền cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng cho con bị hại là cháu Bùi Đỗ Thanh D, cấp dưỡng 1.000.0000 đồng/ tháng cho cha đẻ bị hại là phù hợp không cao nên cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo K.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần K, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 15/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, cụ thể:
1. Tuyên bố bị cáo Trần K phạm tội “Giết người” - Áp dụng Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần K 11 (mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/4/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Trần K bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại Bùi N số tiền 255.500.000 đồng, khấu trừ 70.000.000 đồng đã bồi thường trước thì bị cáo K còn phải tiếp tục bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại 185.500.000 đồng (một trăm tám mư i lăm triệu năm trăm nghìn đồng).
Buộc bị cáo Trần K phải cấp dưỡng nuôi cháu Bùi Đỗ Thanh D (con của bị hại Bùi N) mức cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 4 năm 2021 cho đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Khoản tiền cấp dưỡng này do bà Đỗ Thị Kim X nhận.
Buộc bị cáo Trần K phải cấp dưỡng cho cụ Bùi C (cha của bị hại Bùi N) mức cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng từ tháng 4 năm 2021 đến khi cụ Bùi C chết.
Các Quyết định khác tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022//HS-ST ngày 15/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo Trần K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 194/2022/HS-PT
Số hiệu: | 194/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về