Bản án về tội giết người số 150/2023/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 150/2023/HSPT NGÀY 19/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và Điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, mở phiên tòa trực tuyến xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 135/2022/TLPT - HS ngày 28 tháng 3 năm 2023. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2080/2023/QĐXXPT- HS ngày 28 tháng 4 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thắng L (tên gọi khác: L mập), sinh ngày 01 tháng 10 năm 2003 tại tỉnh Gia Lai. Nơi cư trú:, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H C và bà Đặng Thị L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 06/02/2021, bị Công an xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPVPHC về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác. (Đã chấp hành xong) 1 - Ngày 08/12/2022, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai tuyên xử 12 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo bị bắt ngày 16/7/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo:

- Ông Lư ng Hữu H – Luật sư Văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bà Hứa Thị Trung N - Luật sư Văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt.

* Bị hại: Anh Nguyễn Trung C, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn 02, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 16/7/2022, Nguyễn Thắng L và anh trai là Nguyễn Đức T (sinh năm 1996) cùng trú tại Thôn 2, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai đi dự tiệc nhóm họ của anh Nguyễn Thành D (sinh năm: 1999) tại nhà của D thuộc Thôn 2, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai (ở đối diện nhà riêng của Nguyễn Đức T). Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, tại tiệc nhóm họ, Nguyễn Minh T1 (sinh năm 1991) và Trà Văn T2 (sinh năm 1999) cùng trú tại Thôn 2, xã T, huyện Đ xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau với anh Mai Văn P (sinh năm 1988; trú tại Thôn 2, xã T, huyện Đ) do anh P say, nói năng không chuẩn. T1 và T2 xông vào đánh P nhưng được mọi người can ngăn, P bỏ đi ra ngoài cổng nhà D để đi về. Thấy T1 và P xảy ra mâu thuẫn, Nguyễn Trung C đi theo ra ngoài cổng nhà D để tìm P nói chuyện nhưng được ông Trần Công T (sinh năm 1971; trú cùng thôn) và Nguyễn Đức T can ngăn. Nguyễn Thắng L cũng đi ra căn ngăn thì C dùng tay tát 01 cái vào mặt L và nói: “Mày im, đi vô nhà”. C tiếp tục đòi tìm P thì T tiếp tục cản lại nên giữa C và T xảy ra cãi cọ, xô xát với nhau. Trong lúc đó P lấy xe máy ra về trước. Trong lúc xô xát với T thì C đã dùng tay nắm cổ áo làm rách áo thun của T rồi C và T đánh nhau bằng tay, chân. L đi vào nhà đứng trong sân nhà nhìn ra thấy T và C đánh nhau ở ngoài đường trước nhà nên L lấy 01 bó ống nhựa dạng PVC định chạy ra đánh C thì bị Võ Minh H (sinh năm: 2001), Lê Nguyên T (sinh năm 2002) cùng trú tại Thôn 2, xã T, huyện Đ chạy theo, can ngăn và đưa L vào trong phòng khách nhà T, không cho L đi ra đánh C. Lúc này trong phòng khách có Lê Thị T (sinh năm: 2001, vợ Nguyễn Đức T) cũng khuyên can L bình tỉnh. Sau khi xô xát, đánh nhau với C thì T đi lại vào nhà đứng ở sân còn C thì vào trong sân nhà D. Chị Trần Thị T sợ tiếp tục xảy ra đánh nhau nên từ phòng khách nhà T đi ra đóng cổng nhà lại.

Khoảng 15 phút sau, bực tức việc T đánh C nên Nguyễn Minh T1 đi từ nhà D sang nhà T và dùng chân đạp nhiều lần vào cổng nhà T. C thấy vậy cũng tiến đến cổng, đứng bên phải T1 cùng tham gia đạp cổng nhà làm cổng đổ sập vào trong. T đang đứng ở trong sân thấy T1 đạp sập cổng nên đã lấy 01 cái cà lê bằng kim loại, dài 29cm cả cán để ở tường rào bên hông nhà, tay phải cầm cà lê đến chỗ T1 đang đứng, đánh ngang qua lại từ phải qua trái, từ trái qua phải về phía T1 thì T1 đưa tay lên đỡ nên trúng một phát vào tay trái của T1, T1 đạp một cái vào người T làm T ngã ra sau thì được Trịnh Xuân T (sinh năm: 1999) và Dư ng Văn N (sinh năm: 2003) cùng trú tại thôn 2, xã T, huyện Đ can ngăn ôm đè và đưa T vào nhà T.

Lúc này L đang ở trong phòng khách nhà T nhìn ra ngoài cổng thấy C đang qu tay về phía T. Nghĩ C đánh T và bực tức trước đó C đánh L và T nên L chạy ra theo đường luồng bên hông phòng khách và lấy 01 con dao (loại dao Thái Lan, dài 20,8cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 11 cm, mũi dao nhọn) để ở trên ghế trong sân nhà T rồi chạy ra chỗ C đang đứng. L vừa chạy vừa đưa dao lên cao qua đầu nhá dao về phía C, khi đến sát chỗ C đứng thì L đâm 01 nhát từ trên xuống dưới vào đầu của Nguyễn Trung C, C lùi lại khoảng 2-3 bước về phía sau rồi ôm đầu, L thấy máu trên đầu anh C chảy ra nhiều nên L không đánh nữa và đi vào nhà của Nguyễn Đức T. Lúc này, Công an xã T nhận được tin báo của quần chúng nhân dân nên đến hiện trường và tiến hành bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thắng L và thu giữ vật chứng.

Qua quá trình điều tra, Nguyễn Thắng L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường nơi xảy ra vụ việc gồm đoạn đường liên thôn thuộc địa phận thôn 2, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

Tại Giấy chứng nhận thư ng tích của Bệnh viện Đại học y dược – HAGL ngày cấp ngày 19/7/2022, chẩn đoán vết thư ng của Nguyễn Trung C lúc vào viện: Vết thư ng vùng trán (P) #4cm đã khâu.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thư ng tích số 227/22/TgT ngày 25/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai kết luận thư ng tích của Nguyễn Trung C:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Một vết thương phần mềm hình vòng cung vùng trán thái dương trước phải dài 7cm, đã khâu ngày thứ 5 chưa cắt chỉ, vết thương khô, sưng nề nhẹ, bờ mép gọn, phẳng, trong đó: Vết thương vùng góc trán phải dài 3cm, vùng thái dương trước phải dài 4cm.

2. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra tại thời điểm giám định là 6% (Sáu phần trăm). Áp dụng phương pháp cộng theo thông tư 22/2019/TT-BYT.

3. Kết luận khác: Cơ chế hình thành vết thương: Do sự tác động trực tiếp của ngoại lực.

Tại Kết luận giám định số 747/KL-KTHS ngày 07/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận: Trên con dao (dao Thái Lan) dài 20,8cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 11cm, mũi nhọn, phần rộng nhất 1,9cm, cán dao bằng nhựa màu vàng dài 9,8cm (Mẫu ký hiệu A1) trong bì công văn được niêm phong gửi giám định: Không phát hiện có máu.

* Vật chứng và đồ vật có liên quan:

- 01 con dao Thái Lan dài 20,8cm cả cán, cán dao bằng nhựa màu vàng, dài 9,8cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 11cm, mũi dao nhọn, bản dao chỗ rộng nhất 1,9cm.

- 01 cái cà lê lục giác bằng kim loại, kích thước dài 29cm cả cán, đầu cà lê kích thước (rộng 10,5cm, dày 01cm), cán cà lê dài 18,5cm, chỗ rộng nhất 4,8cm, chỗ dày nhất 2,3cm.

- 01 cái áo thun màu xanh, có dòng chữ “adidas” ở ngực áo bên trái, kích thước 70x50cm.

Với nội dung vụ án được xác định như trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã Quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thắng L phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thắng L 9 (Chín) năm tù.

Áp dụng Điều 55, Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 12 (Mười hai) tháng tù tại Bản án số 59/2022/HSST ngày 08/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” (Quyết định thi hành án hình phạt tù số 01/2023/QĐ-CA ngày 17 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ) với hình phạt 9 (Chín) năm tù của bản án này. Buộc bị cáo Nguyễn Thắng L phải chấp hành hình phạt chung là 10 (Mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn Quyết định về: Trách nhiệm dân sự; Xử lý vật chứng, Án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm: ngày 06/3/2023, bị cáo Nguyễn Thắng L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì hình phạt mà Bản án sơ thẩm quyết định đối với bị cáo là quá nặng.

Tại phiên tòa: bị cáo vẫn giữ nguyên các nội dung kháng cáo; Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai; Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau khi nghe: Bị cáo trình bày nội dung, căn cứ kháng cáo; quan điểm của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án; căn cứ bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ s vụ án, lời khai của bị cáo, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm có căn cứ để kết luận: ngày 16/7/2022, bị cáo Nguyễn Thắng L đã có hành vi dùng dao Thái Lan (dài 20,8cm cả cán, lưỡi dao bằng kìm loại dài 11 cm, mũi dao nhọn) đâm một nhát từ trên xuống dưới vào đầu anh Nguyễn Trung C. Hậu quả anh C bị một vết thư ng phần mềm hình vòng cung vùng trán thái dư ng trước phải dài 7cm với tỉ lệ tổn thư ng c thể là 6%. Với hành vi và hậu quả như trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai tuyên bố bị cáo Nguyễn Thắng L phạm tội “Giết người”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thắng L thì thấy: bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm có tính sát thư ng cao để đâm vào vùng trọng yếu trên c thể của người khác, hậu quả làm người bị hại bị thư ng tích 6%. Hành vi của bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n (Có tính chất côn đồ) khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; bị cáo phạm tội chưa đạt nên đã áp dụng Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo 09 năm tù là tư ng xứng với tính chất, mức độ và hậu quả mà bị cáo cáo đã gây ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không có căn cứ để chấp nhận.

[3]. Các quyết định của Bản án sơ thẩm về: Trách nhiệm dân sự; Xử lý vật chứng; Án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

[4]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Từ những nhận định trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thắng L . Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 15, khoản 3 Điều 57 và Điều 56 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thắng L 9 (Chín) năm tù về tội “ Giết người ”; tổng hợp hình phạt 12 (Mười hai) tháng tù tại Bản án số 59/2022/HSST ngày 08/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai, bị cáo Nguyễn Thắng L phải chấp hành hình phạt chung là 10 (Mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2022.

2. Án phí phúc thẩm:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thắng L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định của Bản án sơ thẩm về: Trách nhiệm dân sự; Xử lý vật chứng; Án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 150/2023/HSPT

Số hiệu:150/2023/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về