Bản án về tội giết người số 125/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 125/2021/HS-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 508/2021/HSST-QĐ ngày 06 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn K, sinh năm 200X tại Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Q- Q, huyện T, Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Nh và bà Phạm Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 11/12/2020 chuyển tạm giam từ ngày 16/12/2020; có mặt.

2. Phạm Văn K1 sinh năm 200Y tại Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn Z, xã C, huyện T, Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn V và bà Trần Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 27/01/2021 chuyển tạm giam từ ngày 16/12/2020; có mặt.

3. Đoàn Văn N, sinh năm 199F, tại Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn G, xã Q-Q, huyện T, Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn N và bà Đinh Thị D; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 11/12/2020 chuyển tạm giam từ ngày 16/12/2020; có mặt.

- Bị hại: Anh Phạm Văn T, sinh năm 198J; địa chỉ: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn K: Bà Nguyễn Thị T - Luật sư văn phòng luật sư L thuộc đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; có đơn xin vắng mặt và gửi bài bào chữa cho bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn K: Ông Lê Hồng N - Luật sư văn phòng luật sư H, thuộc đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Văn N: Ông Nguyễn M C và ông Nguyễn Thanh T đều là luật sư công ty luật TNHH I thuộc đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; ông Cường vắng mặt, ông Tùng có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Hoàng Thị H; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Q-Q, huyện T, Hải Phòng; vắng mặt

+ Bà Phạm Văn T; nơi cư trú: T Thôn Đ, xã Q-Q, huyện T, Hải Phòng; có mặt

+ Anh Phạm Văn M; nơi cư trú: Thôn H, xã A, huyện A, Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 10/12/2020, Hoàng Văn K nhận được điện thoại của em gái là Hoàng Thị H, sinh năm 200G, trú tại thôn Đ, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng nói cho K biết việc giữa H và anh Phạm Văn M, sinh năm 199U, trú tại thôn H, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng là công nhân cùng Công ty TNHH GreenWorks thuộc khu công nghiệp Tràng Duệ vừa xảy ra việc cãi chửi nhau, đồng thời nhờ K đến gặp M nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn giúp cho H, K đồng ý. Khoảng 17 giờ cùng ngày, K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16M4- 5909 chở Đoàn Văn N đến nhà Phạm Văn K1 cả ba thuê 01 xe taxi (không nhớ hãng) đi đến khu vực cổng Công ty GreenWorks để gặp H. Sau khi được H nói cho biết ca làm việc của M phải đến 20 giờ cùng ngày mới kết thúc, thì cả ba cùng nhau đi taxi về nhà K và hẹn gặp nhau tại quán bia khu vực ngã tư Trịnh Xá, thuộc xã Thiên Hương, huyện T, thành phố Hải Phòng. K lấy xe máy chở N đi trước, trên đường đi, cả hai đến một cửa hàng trên đường Tỉnh lộ 352 thuộc địa phận xã Mỹ Đồng, huyện T, thành phố Hải Phòng mua 02 con dao (dạng dao bầu), có kích thước tương đương nhau với giá 300.000 đồng, người bán dao dùng bìa các-tông bọc lưỡi dao rồi cho vào túi nilon đưa cho K treo vào móc xe, cả hai đi đến quán bia ngã tư Trịnh Xá chờ K. Khoảng 19 giờ cùng ngày, K điều khiển xe máy đến quán bia, tại đây K nói cho K biết việc đã chuẩn bị dao để đi đánh nhau. Cả nhóm ngồi uống bia được khoảng 15 phút, thì K điều khiển xe máy chở N ngồi sau cầm 02 con dao bầu, K đi xe một mình cùng đến khu vực cổng Công ty GreenWorks. Đến nơi, N xuống xe giấu 02 con dao vào bụi cỏ ở cống nước để đợi H. Khoảng 20 giờ cùng ngày, H ra cổng chỉ cho K nhận dạng M trong nhóm công nhân đang ra về, N đi lấy 02 con dao đưa cho K giấu vào trong bụng áo rồi cả ba cùng đi về phía M. K đi đến hỏi M lý do đánh H, hai bên lời qua tiếng lại với nhau. Lúc này anh Phạm Văn T, sinh năm 1988, trú tại thôn Thiên Đông, xã Kim Tân, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương vô tình đi ngang qua thấy có nhiều người đang to tiếng cãi nhau, thì đi đến chỗ K nói “mày định làm đầu gấu ở đây à”, đồng thời lấy mũ cối đang đội trên đầu đập 02 nhát trúng vào đầu và vai của K. Thấy vậy, K dùng tay phải lấy dao từ trong bụng áo ra, cầm 01 con dao trên tay phải đâm anh T một nhát trúng vào vùng ngực, con dao còn lại bị rơi xuống đất được K nhặt lên, cầm trên tay trái chém một nhát trúng bắp tay trái anh T. Khi anh T quay người bỏ chạy, thì bị K đâm tiếp 01 nhát trúng vùng lưng, đồng thời cầm dao đuổi theo đến khi anh T ngã dựa lưng vào ô tô đang đỗ gần đó, thì K cầm dao xông vào đâm liên tiếp nhiều nhát, làm anh T ngã ra nền đường. K đi đến dùng chân đá vào đầu anh T, K tiếp tục dùng dao đâm nhiều nhát vào người anh T, H thấy vậy chạy đến, ôm giữ người K không cho đánh tiếp. Lúc này, anh T vùng dậy giữ được tay cầm dao của K, K giơ dao đe dọa không cho ai vào can ngăn rồi cùng K gỡ tay anh T ra. Sau đó, K lấy lại con dao trên tay K1 cầm cả 02 con dao rồi cùng N, K lên hai xe bỏ chạy. Anh T được mọi người đưa đến cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện An Dương, sau đó chuyển đến Bệnh viện Hữu nghị Việt - Tiệp Hải Phòng để điều trị. N chở K bỏ chạy được khoảng 500m đến khu vực ngã tư đường LG và QL10, thì K vất 02 con dao vào bụi cỏ cạnh tường bao của Công ty Bluecom. Ngay lúc đó, tổ công tác của Đồn Công an Tràng Duệ, huyện An Dương làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát đã phát hiện, thu giữ được 02 con dao này, trên thân dao còn bám dính tạp chất màu nâu (nghi máu), đồng thời dẫn giải Hoàng Văn K và Đoàn Văn N về trụ sở Công an Đồn Tràng Duệ giải quyết, còn K điều khiển xe mô tô đã bỏ chạy thoát.

Ngày 11/12/2020, Hoàng Văn K, Đoàn Văn N bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương. Tiến hành thu giữ của K 01 bộ quần áo, đôi giày có bám dính tạp chất màu nâu đỏ (nghi máu); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30s và 01 xe mô tô biển kiểm soát 16M4-5909; thu giữ của N 01 bộ quần áo, đôi dép; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen. Cùng ngày, anh Phạm Văn M giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng đồng; Hoàng Thị H giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S plus. Đến ngày 26/01/2021, Phạm Văn K bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 644/2020/TgT ngày 14/12/2020 và Bản kết luận giám định pháp y bổ sung về thương tích số 129/2021/TgT ngày 06/4/2021 của Trung tâm Pháp y thành phố Hải Phòng kết luận: Nạn nhân Phạm Văn T bị thương rách da vùng ngực, vùng thắt lưng phải, cẳng tay trái, đùi phải và nhiều vết thương rách da gây đứt bán phần cơ delta, đứt động mạch quay bên trái, gân cơ gan tay lớn, gân cơ cánh tay quay, gãy gai ngang L2, L3. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 33%. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc hoặc sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên.

Kết quả khám nghiệm hiện trường vụ án, được xác định là khu vực cổng số 1, Công ty TNHH GreenWorks thuộc khu công nghiệp Tràng Duệ, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, Cơ quan điều tra ghi nhận và thu giữ: 03 mẫu dấu vết nghi máu dạng nhỏ giọt, văng bắn, trong diện từ (0,8 x 0,8)m x (1,6 x 0,7)m;

01 áo khoác dài tay, bám dính nhiều tạp chất màu nâu đỏ (nghi máu), trên áo có 07 vết rách thủng; 01 mảnh bìa các-tông màu vàng quấn băng dính; 01 mũ cối màu xanh; 02 vỏ lon bia nhãn hiệu SAIGON.

Tại bản Kết luận giám định số 10/2021/GĐSH ngày 07/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Các tạp chất màu nâu đỏ ghi nhận tại hiện hiện trường; trên 02 con dao bầu và trên các bộ quần áo, giầy thu giữ của Hoàng Văn K, Đoàn Văn N đều có máu người, là máu của anh Phạm Văn T.

Quá trình điều tra, Hoàng Văn K, Phạm Văn K1 Đoàn Văn N khai nhận hành vi cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nội dung trên.

Vật chứng vụ án: chuyển Cục thi hành án dân sự thành phố quản lý các vật chứng, gồm: 02 con dao (dạng dao bầu) là hung khí gây án; các bộ quần áo của nạn nhân và của các bị can K, N; mảnh bìa các-tông; 01 chiếc mũ cối; 02 vỏ lon bia; 01 đôi giày da của K; 01 đôi dép của N; 04 chiếc điện thoại di động các loại đều đã qua sử dụng.

Về dân sự: Bị hại Phạm Văn T yêu cầu được bồi thường toàn bộ tiền viện phí, điều trị thương tích phục hồi sức khỏe và bồi thường tổn thất tinh thần là 110.000.000 đồng. Gia đình các bị cáo đã bồi thường được 60.000.000 đồng, trong đó gia đình K bồi thường 30.000.000 đồng; gia đình N bồi thường 20.000.000 đồng và gia đình K bồi thường 10.000.000 đồng.

- Tại Bản Cáo trạng số 89/CT-VKS-P2 ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Phạm Văn K1, Hoàng Văn K, Đoàn Văn N về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 38, Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn K từ 13 đến 14 năm tù về tội Giết người.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 38, Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn K1 từ 12 năm 6 tháng đến 13 năm tù về tội Giết người.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 38, Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đoàn Văn N từ 12 năm đến 12 năm 6 tháng tù về tội Giết người.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo liên đới bồi thường tiếp cho bị hại 50.000.000 đồng.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

+ Các bị cáo thừa nhận hành vi của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu và không có ý kiến khiếu nại, thắc mắc gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

+ Quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo cho rằng: Các bị cáo tuổi đời còn trẻ, phạm tội do nông nổi, thiếu kiềm chế; vụ việc xảy ra do bị hại can ngăn thái quá, còn các bị cáo đều không có động cơ tước đoạt tính mạng bị hại, hậu quả thương tích của bị hại là 33% hiện đã dần ổn định; bị cáo N không trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất mà Kiểm sát viên đã đề nghị tại phiên tòa.

+ Người bị hại không có ý kiến gì về tội danh, khung hình phạt; đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và buộc các bị cáo bồi thường tiếp 50 triệu đồng.

Các bị cáo không có ý kiến khiếu nại, thắc mắc gì về tội danh và khung hình phạt; cùng đồng ý với mức bồi thường mà bị hại đưa ra. Phần lời nói sau cùng các bị cáo đều xin được hưởng lượng khoan hồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng và Kiểm sát viên đều thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm như đã nêu trên. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của bị hại và các người làm chứng; kết quả giám định pháp y về thương tích; vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét công khai tại phiên tòa; nên đủ cơ sở kết luận: Ngày 10/12/2020, Hoàng Văn K, Đoàn Văn N, Phạm Văn K chuẩn bị sẵn 02 con dao bầu đem đến khu vực cổng số 1 Công ty TNHH GreenWorks thuộc khu công nghiệp Tràng Duệ, huyện An Dương thành phố Hải Phòng, nhằm mục đích tìm đánh anh Phạm Văn M giúp em gái của K là Hoàng Thị H giải quyết mâu thuẫn cá nhân. Tại đây, đã phát sinh mâu thuẫn giữa anh Phạm Văn T với nhóm của K, dẫn đến việc K, K1 sử dụng dao bầu đâm, chém nhiều nhát vào người anh T, gây nhiều vết thương, trong đó có các nhát đâm vào vùng ngực, lưng của nạn nhân là vị trí hiểm yếu trên thân thể người, làm giảm 33% sức khỏe. Đối với N mặc dù không trực tiếp tham gia đánh anh T nhưng N là người cùng K đi mua dao, trực tiếp cất giấu và đưa hung khí cho K, liền ngay sau đó, N là người điều khiển xe mô tô chở K bỏ chạy khỏi hiện trường. Do đó, hành vi của các bị cáo đều đã đồng phạm tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Xuất phát từ một mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt, các bị cáo đã mang hung khí đi hàng chục km đến nơi làm việc, mục đích hành hung anh M (người có mâu thuẫn với em gái của K). Khi phát sinh hành vi bênh vực thái quá của bị hại (anh T), các bị cáo đã dùng dao bầu đâm, chém bị hại nhiều nhát, gây nhiều vết thương trên cơ thể, trong đó có 3 vết thương vào vùng lưng, ngực. Ngay cả khi bị hại bỏ chạy và bị ngã, các bị cáo vẫn tiếp tục tấn công cho đến lúc chị H ôm giữ K lại, sau đó K tiếp tục đe dọa không cho người khác can thiệp. VKSND thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo với tình tiết định khung “phạm tội có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo không những gây nguy hiểm đến tính mạng người khác mà còn xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây dư luận hoang mang trong cộng đồng nhân dân lao động tại các khu công nghiệp. Mặc dù hậu quả chết người chưa xảy ra, nhưng hành vi manh động, thích giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực của các bị cáo vẫn cần phải xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là: Đã tác động với gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại (điểm b), thành khẩn khai báo (điểm s); bị hại có lỗi khi đánh bị cáo trước bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo (khoản 2).

[7] Về tính chất, vai trò và hình phạt chính đối với từng bị cáo: Xét các bị cáo phạm tội chưa đạt; tham gia thực hiện đồng phạm giản đơn, nên cần căn cứ Điều 17, Điều 57 và Điều 58 Bộ luật hình sự để đánh giá vai trò của từng bị cáo, từ đó quyết định hình phạt tương xứng. Bị cáo K giữ vai trò chính là người khởi sướng, chuẩn bị hung khí và tích cực thực hiện hành vi phạm tội, gây ra các vết thương nguy hiểm cho bị hại nên giữ vai trò cao nhất. Bị cáo K tích cực giúp sức bị cáo K, trực tiếp cầm dao bầu tấn công bị hại nên có vai trò đứng thứ hai. Bị cáo N tham gia bàn bạc, chuẩn bị hung khí và chở bị cáo K bỏ chạy khỏi hiện trường nhưng không trực tiếp gây thương tích cho bị hại nên có vai trò thấp nhất. Do đó, đối với cần áp dụng hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt đối với bị cáo K và bị cáo K theo mức đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa; bị cáo N áp dụng mức hình phạt thấp nhất, dưới mức khởi điểm của khung hình phạt; là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Văn T yêu cầu tổng công 110.000.000 đồng, gia đình các bị cáo đã bồi thường 60.000.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp tổn thất về tinh thần là 50.000.000 đồng và được các bị cáo đồng ý. Căn cứ Điều 587 và Điều 590 Bộ luật dân sự; Hội đồng xét xử thấy thỏa thuận bồi thường như trên không trái pháp luật, phù hợp với thiệt hại thực tế xảy ra. Đánh giá tính chất, vai trò và lỗi của từng bị cáo; buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho bị hại theo phần như sau: Bị cáo K phải cho bị hại số tiền là 50.000.000đ, bị cáo K bồi thường cho bị hại số tiền là 40.000.000đ bị cáo, N bồi thường cho bị hại số tiền là 20.000.000đ. Hiện, gia đình K bồi thường 30.000.000 đồng; gia đình N bồi thường 20.000.000 đồng và gia đình K bồi thường 10.000.000 đồng. Như vậy bị cáo K còn phải bồi thường tiếp cho bị hại 20.000.000đ; bị cáo K phải bồi thường cho bị hại 30.000.000đ; bị cáo N đã bồi thường xong phần của mình.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 02 con dao (dạng dao bầu) là hung khí gây án; các bộ quần áo của nạn nhân và của các bị can K, N; mảnh bìa các-tông; 01 chiếc mũ cối; 02 vỏ lon bia; 01 đôi giày da của K; 01 đôi dép của N. Đây là những tang vật liên quan đến công cụ gây án hoặc không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với 04 điện thoại thu giữ được là vật dụng sử dụng hàng ngày của bị cáo và các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và gia đình họ, cần trả lại cho chủ sở hữu.

[10] Đối với Hoàng Thị H là người gọi Hoàng Văn K đến để giúp mình nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn với Phạm Văn M. Quá trình điều tra xác định bản thân H không biết việc K gọi thêm K1 N và chuẩn bị dao bầu để đánh nhau. Quá trình xô xát đánh nhau, khi thấy K đuổi đánh anh T, H có vào ôm giữ, can ngăn K, do vậy không có căn cứ xác định H đồng phạm với K về tội Giết người. Tuy nhiên, hành vi H nhờ K đến giải quyết mâu thuẫn là một trong những nguyên nhân dẫn đến vụ án, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng đề nghị chính quyền nơi cư trú xử phạt hành chính đối với H là phù hợp qui định của pháp luật.

[11] Đối với Phạm Văn M có hành vi cãi chửi nhau nhưng chưa đến mức phải xử lý hình sự về hành vi gây rối trật tự công cộng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng đề nghị chính quyền nơi cư trú xử phạt hành chính đối với M là phù hợp qui định của pháp luật.

[12] Đối với Phạm Văn T không có quan hệ quen biết gì với K, N, K và anh M. Tối ngày 10/12/2020, khi T vô tình đi ngang qua khu vực cổng số 1 Công ty TNHH GreenWorks, thì thấy anh M là công nhân đang bị nhóm thanh niên lạ mặt lấn át nên đã bênh vực, dùng mũ cối đang đội trên đầu đánh vào người K nhưng không để lại hậu quả thương tích gì. Việc thực hiện hành vi can ngăn thái quá, dẫn đến hậu quả làm cho bản thân mình bị thương tích nặng, tổn hại 33% sức khỏe, chưa đến mức phải xử lý hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đề nghị chính quyền nơi cư trú xử phạt hành chính đối với T là phù hợp qui định của pháp luật.

[13] Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 16M4-5909 thu giữ của Hoàng Văn K là xe của ông Hoàng Văn Nhu, sinh năm 1978 (bố của K). Ông Nhu không biết việc K sử dụng xe để đi đánh nhau nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Nhu là đúng qui định của pháp luật.

[14] Về án phí: Các bị cáo đều phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo K và bị cáo K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Điều 57 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn K 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 12 năm 2020.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Điều 57 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn K 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 01 năm 2021.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Điều 54; Điều 57 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đoàn Văn N 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 12 năm 2020.

- Về dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 587 và Điều 590 Bộ luật Dân sự; buộc các bị cáo K và K phải liên đới bồi thường tiếp cho bị hại 50.000.000 đồng; chia theo phần cụ thể bị cáo K phải bồi thường 20.000.000 đồng, bị cáo K phải bồi thường 30.000.000 đồng. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu các bị cáo chưa bồi thường xong, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi chậm trả, theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình;

+ Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác dài tay, khóa kéo, màu đen, trong lót lông; 01 mảnh bìa carton màu vàng nhạt; 01 mũ cối màu anh; 02 cỏ bia nhãn hiệu SAIGON; 02 con dao; 01 áo khoác màu đen, logo “ADIDAS”, 01 quần dài vải bò màu xanh trắng, 01 áo sơ mi dài tay cổ bẻ; 01 đôi giày da xỏ dây màu trắng; 01 áo khoác màu trắng có mũ, viền sọc đen hai bên tay áo, trên có Logo chữ “Execllent Sovour”; 01 áo phông ngắn tay chui đầu cổ tròn màu trắng, có Logo “Justin”; 01 quần dài vải bò tối màu Logo “Levi”; 01 đôi dép cao su màu trắng đế màu đen;

+ Trả lại cho bà Phạm Thị T 01 điện thoại Samsung Galaxy A30s màu xanh- đen đã qua sử dụng, có số Imei 1: 358544102089997; Imei 2: 358545102089994; trả lại cho bị cáo Đoàn Văn N 01 điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng, vỏ mặt lưng bị vỡ, có số Imei 1: 353717/07/426432/8; Imei 2: 353717/07/426433/6; trả lại anh Phạm Văn M 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 màu vàng đồng đã qua sử dụng có số Imei: 3535236075797343; Imei 2: 353237075797341; trả lại chị Hoàng Thị H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus đã qua sử dụng, có số Imei: 354951070982471.

(vật chứng được lưu giữ theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng)

- Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo K phải nộp 1.000.000 đồng và bị cáo K phải nộp 1.500.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và bà Phạm Thị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Hoàng Thị H và anh Phạm Văn M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự N thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

381
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 125/2021/HS-ST

Số hiệu:125/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về