TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 20/02/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 20 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 01/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Văn K, sinh ngày 28/12/2002, tại huyện L, tỉnh H; Nơi đăng ký thường trú: Ấp 5, xã V, huyện L, tỉnh H; Nơi cư trú: 639/45, Lê Hồng Phong, khóm 5, phường 3, thành phố S, tỉnh S; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Kh và bà Trần Thị C; Anh chị em ruột có 02 người; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự, tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 22/01/2019 bị Công an huyện L, tỉnh H ra quyết định xử phạt vi phạm số 24/QĐ-XPHC xử phạt bằng hình thức cảnh cáo. Ngày 04/7/2019 bị Công an huyện L, tỉnh H ra quyết định xử phạt vi phạm số 55/QĐ-XPHC xử phạt bằng hình thức phạt tiền, số tiền 750.000 đồng, đã chấp hành xong ngày 22/7/2019. Bị cáo Trần Văn K bị tạm giữ từ ngày 31/10/2022 đến ngày 03/11/2022 chuyển sang tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ngô Thị Trúc V, sinh ngày 01/8/2008. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Khu vực 3, phường T, thị xã L, tỉnh H.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1976 (mẹ của bị hại) .Có mặt.
Địa chỉ: Khu vực 3, phường T, thị xã L, tỉnh H.
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Trịnh Thị Trúc L, Trợ giúp viên pháp lý hạng III Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh H. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Ngô Văn T, sinh năm: 1978. Có mặt.
Địa chỉ: Khu vực 3, phường T, thị xã L, tỉnh H.
- Người tham gia tố tụng khác:
Anh Trương Sơn T – Đại diện Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Phường T, thị xã L, tỉnh H Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook nên giữa Trần Văn K và Ngô Thị Trúc V (sinh ngày: 01/8/2008, nơi thường trú: khu vực 3, phường T, thị xã L, tỉnh H) nảy sinh tình cảm yêu đương nam nữ với nhau từ ngày 25/02/2022. Đến ngày 30/10/2022 Trần Văn K và Ngô Thị Trúc V đã quan hệ tình dục với nhau 01 lần tại nhà của Ngô Thị Trúc V, cụ thể như sau:
Vào khoảng 20 giờ ngày 29/10/2022 Ngô Thị Trúc V dùng điện thoại di động của ông Ngô Văn T (là cha ruột của V, sinh năm: 1978, nơi thường trú: khu vực 3, phường T, thị xã L) để nhắn tin cho Trần Văn K qua số điện thoại 0766.966.xxx để rủ K đến nhà V thì K đồng ý. Sau khi nhắn tin xong, V xóa hết nội dung tin nhắn đã nhắn cho K trong điện thoại di động của Ngô Văn T. Trần Văn K làm phục vụ tại quán nhậu đến khoảng 00 giờ ngày 30/10/2022 thì tan ca về nhà trọ để tắm và thay quần áo rồi một mình điều khiển xe môtô, biển kiểm soát: 95DB - xxxxx đến nhà của V. Khi đến nhà V thì K thấy V đang đứng sẵn ở hàng ba nhà, K dẫn xe vào đậu trong hàng ba rồi V dẫn K vào phòng ngủ của V.
Khi vào phòng ngủ, K và V ngồi trên giường để nói chuyện với nhau một lúc rồi K và V ôm hôn nhau, K hôn lên mặt, môi của V rồi dùng tay sờ bóp vùng ngực, âm đạo của V và dùng ngón tay giữa của bàn tay phải đưa vào trong âm đạo của V rút ra rút vô liên tục khoảng 05-06 phút thì K dùng tay tự cởi quần của K đang mặc ra kể cả quần lót, không cởi áo. Tiếp tục K dùng tay vén áo của V đang mặc kể cả áo lót lên đến ngực và cởi quần của V đang mặc ra, kể cả quần lót rồi K và V quan hệ tình dục với nhau trong tư thế: V nằm ngửa, hai chân dang rộng sang hai bên, K quỳ gối, người khom về phía trước, mặt đối diện với V, tay trái của K chống xuống giường, tay phải cầm dương vật đang cương cứng đút vào âm đạo của V nhịp liên tục khoảng 05-10 phút thì V nghe tiếng xe của Nguyễn Thị M (mẹ ruột của V, sinh năm 1976, nơi thường trú: khu vực 3, phường Trà Lồng, thị xã L) đi hái nấm rơm về. Do sợ bị phát hiện nên K và V không quan hệ tình dục nữa mà đứng dậy tự mặc quần vào rồi K và V lên giường nằm trùm mền lại để trốn bà M. Bà M đi vào giường ngủ của V kéo mền ra thì thấy K và V đang trùm mền chung. Lúc này, ông Ngô Văn T đi vô vén mùng lên rồi dùng tay đánh K nhiều cái, khi đó V ôm ông T nên K bỏ chạy, ông T và bà M rượt theo K nhưng không tìm thấy. Khi K quay lại nhà V để lấy xe thì ông T và bà M phát hiện rồi giữ K lại và ông T la lên có ăn trộm nên cậu ruột của V là ông Tô T (sinh năm 1975 ngụ cùng khu vực 3, phương Trà Lồng) qua nhà V giữ K lại. Sau đó, lực lượng công an phường Trà Lồng đến mời Trần Văn K về trụ sở làm việc, K không thừa nhận hành vi quan hệ tình dục với V nhưng đến ngày 31/10/2022 K đã đến Cơ quan điều tra xin đầu thú và khai nhận toàn bộ sự việc quan hệ tình dục với V vào ngày 30/10/2022 tại khu vực 3, phường T, thị xã L, tỉnh H.
Tại Bản kết luận giám định Pháp y đối với trẻ em bị xâm hại hoặc nghi bị xâm hại tình dục số: 26/22/TDTE ngày 01/11/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh H kết luận (bút lục 58-59):
“- Màng trinh rách mới vị trí khoảng 05 giờ.
- Hiện tại Ngô Thị Trúc V không có thai.
- Không tìm thấy tinh trùng trong dịch âm đạo.
- Tụ huyết da trước cổ hiện tại. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là 02% (Hai phần trăm).” Đối với 03 vết tụ huyết da trước cổ trên cơ thể của Ngô Thị Trúc V theo Kết luận giám định là 02%, bị can K thừa nhận là khi quan hệ tình dục với V, bị can dùng miệng nút mạnh nhiều cái vào vùng cổ V nên gây ra các vết tụ huyết da như trên.
Quá trình điều tra Trần Văn K và Ngô Thị Trúc V đều thừa nhận khi quan hệ tình dục Trần Văn K không dùng vũ lực, không sử dụng chất kích thích để làm mất khả năng nhận thức của V, không có hành động dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa, ép buộc quan hệ tình dục trái với ý muốn của V. Lời khai của K phù hợp với lời khai của bị hại và những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.
Quá trình xác minh độ tuổi của Ngô Thị Trúc V: Mặc dù không thu thập được giấy chứng sinh của V và giấy khai sinh của V thì đăng ký quá hạn vào ngày 07/04/2009 so với thời gian V sinh ngày 01/8/2008 là khoảng 08 tháng. Tuy nhiên, quá trình điều tra, xác minh cho thấy ngày tháng năm sinh trên giấy khai sinh của V phù hợp với các giấy tờ như thẻ học sinh, sổ hộ khẩu đồng thời lời khai của cha, mẹ V khẳng định V sinh ngày 01/8/2008 là đúng với tuổi thật của V. Mặt khác, trong gia đình bà Nguyễn Thị M có chị ruột là bà Nguyễn Thị Diệu H (sinh năm: 1974, ĐKTT: ấp T, xã T có sinh 01 bé gái trước ngày sinh Ngô Thị Trúc V 27 ngày) tên là Bùi Thị Ngọc H, sinh ngày 05/7/2008, đăng ký giấy khai sinh ngày 03/9/2008 là đúng quy định. Do vậy, xác định thời điểm Trần Văn K thực hiện hành vi quan hệ tình dục với Ngô Thị Trúc V (vào ngày 30/10/2022) thì Ngô Thị Trúc V có độ tuổi là 14 tuổi 02 tháng 29 ngày.
Kết quả xem xét dấu vết trên cơ thể của Trần Văn K xác định có 02 vết do Ngô Văn T gây ra gồm: 01 (một) vết bầm tụ huyết dưới mí mắt phải kích thước (1x1) cm và 01 (một) vết sưng phù nề mặt ngoài cẳng tay phải kích thước (2x2)cm. Qua làm việc Trần Văn K trình bày: Vào ngày 30/10/2022 khi bị cáo quan hệ tình dục với Ngô Thị Trúc V tại nhà V thì cha, mẹ của V về nên bị cáo và V mặc đồ lên trên giường trùm mền chung với nhau thì bị ông Ngô Văn T (cha ruột V) phát hiện và dùng tay không đánh gây ra hai vết thương trên. Xét thấy, bị cáo K đã có hành vi sai trái đối với V là con ruột của Ngô Văn T nên Ngô Văn T mới tức giận đánh K bị thương tích, nhưng vết thương hiện tại đã lành và bị cáo K không có yêu cầu xử lý gì đối với Ngô Văn T nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Về nhân thân bị cáo Trần Văn K có 02 lần xử phạt vi phạm hành chính: Ngày 22/01/2019 bị Công an huyện L, tỉnh H ra quyết định xử phạt vi phạm số 24/QĐ-XPHC xử phạt bằng hình thức cảnh cáo. Ngày 04/7/2019 bị Công an huyện L, tỉnh H ra quyết định xử phạt vi phạm số 55/QĐ-XPHC xử phạt bằng hình thức phạt tiền, số tiền 750.000 đồng, đã chấp hành xong ngày 22/7/2019. Tuy nhiên, cả 02 lần vi phạm bị cáo K đều chưa đủ 18 tuổi nên được xem là không có tiền sự.
Vật chứng vụ án:
Cơ quan CSĐT Công an thị xã L, tỉnh H đã ra Quyết định tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu gồm:
- Đồ vật của Trần Văn K tự nguyện giao nộp:
+ 01 (Một) xe mô tô biển số: 95DB-xxxxx, xe nhãn hiệu ESPERO, màu đen vàng, số máy: 139FMB010778, số khung: B1PEBA010778, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) Cái điện thoại di động nhãn hiệu REALME, màu đen, loại máy REALME C30S, số IMEL1: 860936060457201, số IMEL2: 860936060457193, điện thoại đã qua sử dụng. Bên trong điện thoại có gắn thẻ sim số 0766.966.xxx.
- Đồ vật của Trần Văn K mặc vào ngày 30/10/2022:
+ 01 (Một) cái quần sọt bằng vải, màu đen, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo sơ mi bằng vải, màu đen, tay dài, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần lót màu xám - đen, lưng quần màu bạc có in chữ “HANES” màu trắng, đã qua sử dụng.
- Đồ vật của Ngô Thị Trúc V mặc ngày 30/10/2022:
+ 01 (Một) cái áo bằng vải thun màu hồng, cổ tròn, ngắn tay, phía trước ngực áo bên trái có in chữ “M” màu đen, áo đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần đùi bằng vải màu đen, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo lót màu trắng, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần lót màu trắng, đã qua sử dụng.
Các vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng thuộc Công an thị xã L, tỉnh H.
Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị M, là mẹ ruột và là người đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Thị Trúc V yêu cầu bị cáo bồi thường danh dự, nhân phẩm cho Ngô Thị Trúc V số tiền 20.000.000 đồng.
Tại cáo trạng số 05/CT-VKS-TXLM, ngày 03/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh H quyết định truy tố bị cáo Trần Văn K ra trước Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H để xét xử về “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định khoản 1 Điều 145 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn K phạm “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Văn K từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày ngày 31/10/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo cho việc thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường danh dự, nhân phẩm cho bị hại Ngô Thị Trúc V do bà Nguyễn Thị M là đại diện hợp pháp số tiền 20.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng:
Trả lại cho bị cáo Trần Văn K:
+ 01 (Một) xe mô tô biển số: 95DB-xxxxx, xe nhãn hiệu ESPERO, màu đen vàng, số máy: 139FMB010778, số khung: B1PEBA010778, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) Cái điện thoại di động nhãn hiệu REALME, màu đen, loại máy REALME C30S, số IMEL1: 860936060457201, số IMEL2: 860936060457193, điện thoại đã qua sử dụng. Bên trong điện thoại có gắn thẻ sim số 0766.966.xxx.
Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (Một) cái quần sọt bằng vải, màu đen, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo sơ mi bằng vải, màu đen, tay dài, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần lót màu xám - đen, lưng quần màu bạc có in chữ “HANES” màu trắng, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo bằng vải thun màu hồng, cổ tròn, ngắn tay, phía trước ngực áo bên trái có in chữ “M” màu đen, áo đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần đùi bằng vải màu đen, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo lót màu trắng, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần lót màu trắng, đã qua sử dụng.
Bà Trịnh Thị Trúc L trình bày: Về trách nhiệm hình sự thống nhất tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường danh dự, nhân phẩm cho bị hại Ngô Thị Trúc V do bà Nguyễn Thị M là đại diện hợp pháp số tiền 20.000.000 đồng .
Đại diện hợp pháp cho bị hại trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Yêu cầu bị cáo bồi thường danh dự, nhân phẩm cho bị hại Ngô Thị Trúc V số tiền 20.000.000 đồng.
Bị cáo Trần Văn K thừa nhận hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại Ngô Thị Trúc V số tiền 20.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa sơ thẩm bị hại Ngô Thị Trúc V vắng mặt và có yêu cầu xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bị hại Ngô Thị Trúc V.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: Do quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook từ ngày 25/02/2022 và phát sinh tình cảm yêu thương nam nữ, ngày 30/10/2022 bị cáo Trần Văn K đã quan hệ tình dục 01 lần với bị hại Ngô Thị Trúc V tại nhà của Ngô Thị Trúc V tại khu vực 3, phường T, thị xã L, tỉnh H. Căn cứ vào giấy khai sinh của bị hại V thì bị hại V sinh ngày 01/8/2008, giấy khai sinh của bị hại V phù hợp với thẻ học sinh, sổ hộ khẩu, thông tin về người được đăng ký khai sinh và các chứng cứ khác nên Hội đồng xét xử có căn cứ xác định bị hại V sinh ngày 01/8/2008. Tại thời điểm bị cáo K quan hệ tình dục với bị hại V ngày 30/10/2022 thì bị hại V 14 tuổi 02 tháng 29 ngày. Hành vi của bị cáo K đã đủ yếu tố cấu thành “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Do đó, cáo trạng số 05/CT-VKS-TXLM, ngày 03/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh H truy tố bị cáo Trần Văn K về “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 145 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[4] Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo:
Hội đồng xét xử nhận định, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục của trẻ em, ảnh hưởng đến nhân phẩm, danh dự, sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em. Hiện nay, Nhà nước và xã hội rất quan tâm đến việc bảo vệ các quyền của trẻ em, đã có nhiều biện pháp để phòng chống, giảm thiểu và nhằm đẩy lùi hiện tượng xâm hại tình dục trẻ em. Mặc dù, bị hại có sự tự nguyện, không bị ép buộc nhưng xét về nhận thức thì bị hại chưa có nhận thức đầy đủ về hành vi của mình trong khi bị cáo là người đã đủ 18 tuổi. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình gây ra.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình. Sau khi quan hệ tình dục với bị hại V ngày 30/10/2022 đến ngày 31/10/2022 bị cáo K đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L đầu thú, tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[7] Về nhân thân: Mặc dù bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Công an huyện L xử phạt vi phạm hành chính 02 lần về hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên cả 02 lần xử phạt bị cáo chưa thành niên nên không được xem là đã có tiền sự. Do đó cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L đầu thú, tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường danh dự, nhân phẩm cho bị hại Ngô Thị Trúc V do bà Nguyễn Thị M là đại diện hợp pháp số tiền 20.000.000 đồng.
[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[10] Về án phí hình sự, dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
[11] Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn K phạm “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Xử phạt bị cáo Trần Văn K 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 31/10/2022.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 592 Bộ luật dân sự năm 2015. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Trần Văn K bồi thường danh dự, nhân phẩm cho bị hại Ngô Thị Trúc V do bà Nguyễn Thị M là đại diện hợp pháp số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bà Nguyễn Thị M có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án. Lãi suất chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên, nhưng không được vượt quá mức lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 468, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trả lại cho bị cáo Trần Văn K:
+ 01 (Một) xe mô tô biển số: 95DB-xxxxx, xe nhãn hiệu ESPERO, màu đen vàng, số máy: 139FMB010778, số khung: B1PEBA010778, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) Cái điện thoại di động nhãn hiệu REALME, màu đen, loại máy REALME C30S, số IMEL1: 860936060457201, số IMEL2: 860936060457193, điện thoại đã qua sử dụng. Bên trong điện thoại có gắn thẻ sim số 0766.966.xxx.
Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (Một) cái quần sọt bằng vải, màu đen, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo sơ mi bằng vải, màu đen, tay dài, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần lót màu xám - đen, lưng quần màu bạc có in chữ “HANES” màu trắng, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo bằng vải thun màu hồng, cổ tròn, ngắn tay, phía trước ngực áo bên trái có in chữ “M” màu đen, áo đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần đùi bằng vải màu đen, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái áo lót màu trắng, đã qua sử dụng.
+ 01 (Một) cái quần lót màu trắng, đã qua sử dụng.
(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 06/01/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L).
Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn K phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng (một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 20/02/2022. Bị hại Ngô Thị Trúc V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 05/2023/HS-ST
Số hiệu: | 05/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về