Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 451/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 451/2022/HS-PT NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 218/2022/TLPT-HS ngày 02 tháng 3 năm 2022, do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.

Bị cáo có kháng cáo:

Hoàng Văn A, sinh năm 1988 tại Hải Phòng, giới tính: Nam.

Nơi cư trú: Thôn 5, xã D1, huyện D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; con ông Hoàng Văn D2 và bà Hoàng Thị D3; có vợ là Đặng Thị D4 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 11/01/2013 bị Tòa án nhân dân huyện D, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 28 tháng 28 ngày về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” tại bản án số 06/2013/HSST. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2021 đến nay.

Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Xuất phát từ việc thu mua phế liệu tại Công ty TNHH S, khoảng 07 giờ ngày 10/12/2020 anh Nguyễn Thành B gọi điện cho Đào Việt B1 hướng dẫn B1 đến Công ty TNHH S để nhận phế liệu; khoảng 05 phút sau, B1 điều khiển xem ô tô biển kiểm soát 90A-109.32 chở Phạm Văn B2, Nguyễn Đình B3, Đan Thanh B4 và chị Nguyễn Thị B5 (là vợ B1) đến cổng Công ty S. Lúc này anh Lê Văn B7 và anh Nguyễn Như B8 điều khiển xe ô tô tải BKS 29C-980.74 và 29C-905.28 vào Công ty S để nhận phế liệu; khi anh B đang cân phế liệu thì nhận được điện thoại của Nguyễn Xuân B9 (trú tại thôn 5, xã D1, huyện D, thành phố Hải Phòng) yêu cầu chưa bốc hàng, nhưng anh B thông báo lại là đã được Công ty S bán phế liệu cho mình; một lúc sau Hoàng Văn A điện thoại cho B1 yêu cầu dừng lại một vài ngày sau sẽ bốc hàng; B1 bảo đã dừng lại rồi nhưng không ai nói lại gì, Hoàng Văn A yêu cầu dừng lại để nói chuyện với Nguyễn Xuân B9, B1 đề nghị A nói chuyện với B9 để B1 bốc nốt chuyến hàng này. Khi Đào Việt B1 đang bốc hàng thì có một thanh niên trong nhóm Hải Phòng vào yêu cầu B1 bốc hàng và ra ngoài nói chuyện với Nguyễn Xuân B9; B1 điều khiển xe ô tô chở theo B4, B3, B2 đi ra cổng khu công nghiệp Đồng Văn IV; trên đường đi B1 gọi điện cho Nguyễn Minh B13 thông báo có nhóm người Hải Phòng không cho bốc hàng và bảo B13 lên nói chuyện xem sao. Khi B1 ra quán nước đối diện cổng khu công nghiệp Đồng Văn IV thì gặp Hoàng Văn A và khoảng hơn 10 người, trong đó có Hoàng Khắc B11, Nguyễn Thanh B12. Tại đây, B1 nói với A, B11 để cho B1 bốc nốt chuyến hàng này thì A nói để xin ý kiến Nguyễn Xuân B9 nên B1 đứng dậy đi ra ngoài. Do cùng chung thu mua phế liệu với B1 nên sau khi nhận được điện thoại của B1, Nguyễn Minh B13 điều khiển xe ô tô BKS 90A-068.86 chở Phạm Quang B10, Tạ Quang B14 đến khu công nghiệp Đồng Văn IV, đồng thời gọi điện cho Nguyễn Ngọc B15; B15 đi taxi đón Phạm Tuấn B16 đi cùng. Khi đi, B15, B16 mỗi người mang theo 01 con dao nhọn; trên đường vào Công ty TNHH S nhóm của B13 gặp xe ô tô tải BKS 29C-905.28 do anh Lê Văn B7 điều khiển đã bốc hàng xong đang đi ra ngoài; B1 yêu cầu lái xe tải đi theo xe B1 để đi đường tránh không đi qua khu công nghiệp, nhưng bị xe Mazda CX8 BKS 15A-565.46 của Nguyễn Xuân B9 do Nguyễn Hải B17 điều khiển chở B11, A, Lê Hữu B18, Nguyễn Văn B19 và 01 xe mô tô do Đặng Thái B20 điều khiển, 01 xe mô tô do một đối tượng chở Đinh Văn B21 cùng nhiều đối tượng khác đi xe ô tô và xe mô tô (chưa rõ lai lịch). Khi hai nhóm gặp nhau, nhóm Hà Nam gồm B10, B13, B2, B4, B3 dùng tay không đánh nhau và có những lời nói thách thức, hô hào “Cướp à, chúng mày cướp à, chúng mày thích đánh nhau à…”. Thấy vậy, nhóm Hải Phòng đã chạy về xe ô tô BKS 15A-565.46 lấy hung khí, trong đó Hoàng Văn A cầm một dao phóng lợn cùng nhau đuổi đánh nhóm người Hà Nam. Bị đuổi đánh, B11, B16 (nhóm Hà Nam) đã dùng dao mang theo đánh lại nhóm Hải Phòng; quá trình rượt đuổi B11 bị ngã thì B20, Phạm Văn B22 (nhóm Hải Phòng) xông vào đánh, B11 đã dùng dao đâm B20 một nhát trúng vào sườn bên trái, 01 nhát trúng vào hông, 01 nhát trúng vào mông phải. Trong khi hai nhóm đang rượt, đuổi đánh nhau thì xe của Tổ Thanh tra giao thông đi đến, nên các đối tượng dừng lại và bỏ chạy lên xe và chạy khỏi hiện trường; Đặng Thái B20 sau đó đã được đưa đi cấp cứu.

Ngay sau khi sự việc xẩy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ một số vật chứng, cũng như trích xuất dữ liệu điện tử tại điện thoại của Phạm Văn B2 ghi lại hình ảnh vụ việc xảy ra.

Đối với Hoàng Văn A, sau khi sự việc xảy ra đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã, đến ngày 28/10/2021 thì bị cáo bị bắt.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST, ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam đã quyết định: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn A phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”. Xử phạt bị cáo 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 28/10/2021.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/02/2022, bị cáo Hoàng Văn A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết. Tuy nhiên, với mức hình phạt như bản án sơ thẩm đối với bị cáo là quá nghiêm khắc; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải; gia đình có công với cách mạng, ông nội của bị cáo là liệt sỹ, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình; bị cáo cũng chỉ nhằm mục đích can ngăn để hai bên hòa giải với nhau; quá trình sinh sống tại địa phương, bị cáo đã có công giúp đỡ mẹ Việt Nam anh hùng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự là có căn cứ và xử phạt bị cáo mức án như bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có ông nội là liệt sỹ, là người có công được tặng thưởng huân chương; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; quá trình sinh sống tại địa phương có công giúp đỡ mẹ Việt Nam anh hùng. Vì vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Từ các phân tích trên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo; sửa bản án sơ thẩm giảm cho bị cáo 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các đối tượng khác trong vụ án, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng được thu giữ, đặc biệt là các dữ liệu điện tử được trích xuất và kết luận giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ mâu thuẫn trong việc thu mua phế liệu tại Công ty TNHH S giữa Đào Việt B1 với Nguyễn Xuân B9 dẫn đến hai nhóm đối tượng ở Hà Nam và Hải Phòng xô xát, đánh nhau; gây náo loạn cả khu vực, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại khu công nghiệp Đồng Văn IV. Hành vi đó của bị cáo đã cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng”, cấp sơ thẩm quy kết, xét xử bị cáo về tội danh nêu trên theo quy định tại Điều 318 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường tại khu công nghiệp, khi sự việc xảy ra bị cáo A đã dùng dao phóng lợn là hung khí nguy hiểm để phạm tội, nên cấp sơ thẩm quy kết bị cáo với tình tiết định khung tăng nặng “Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử đồng tình với nhận định của bản án sơ thẩm: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra và tại các phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và đã thật sự tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có ông nội là Hoàng Văn C là liệt sỹ. Ngoài ra, trong quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo đã tham gia phong trào từ thiện là đã có công giúp đỡ, chăm sóc mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị X; bản thân bị cáo có hoàn cảnh khó khăn vợ không có việc làm ổn định, có 03 con hiện đang còn nhỏ nên bị cáo là lao động chính; đây là những tình tiết mới mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo. Hơn nữa, trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, bàn bạc nhau; bị cáo tuy mang theo hung khí nhưng không gây thiệt hại sức khỏe cho ai. Do đó, cần xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ mới để chấp nhận kháng cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt là có căn cứ. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[4] Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn A; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn A 30 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 28/10/2021).

Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 451/2022/HS-PT

Số hiệu:451/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về