TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 24A/2022/HS-PT NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2021/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo: Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình.
Bị cáo bị kháng nghị:
1. Nguyễn Cao C; sinh ngày 11 tháng 6 năm 1971 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn T, xã Tr, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn phổ thông: lớp 8/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Võ Thị H sinh năm 1947; có vợ Nguyễn Thị L sinh năm 1975 và có 04 người con; quá trình nhân thân: năm 1994 bị Công an huyện B xử lý hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, năm 2005 bị Công an huyệ n B xử lý hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”, năm 2006 bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Hủy hoại tài sản”; tiền sự, tiền án: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 18/8/2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Văn T; sinh ngày 04 tháng 5 năm 1977 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn V, xã Tr, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn phổ thông: lớp 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Võ Thị H sinh năm 1947; có vợ Hoàng Thị Minh Nh sinh năm 1985 và có 04 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền sự, tiền án: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 26/4/2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Trong vụ án này còn có những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 29/03/2021, UBND xã Tr, huyện B nhận được đơn trình bày của Nguyễn Cao C đề nghị giải quyết một số nội dung liên quan đến việc xây dựng, sữa chữa, bảo quản và vận hành nhà đưa tang của thôn T.
Vào lúc 08h30 ngày 09/4/2021, UBND xã Tr mời Nguyễn Cao C và anh Nguyễn Quyết T, Nguyễn Văn Th cùng với đại diện chính quyền địa phương tham gia buổi trao đổi, hòa giải với nội dung theo đơn, gồm có: ông Lưu Đức H - chủ tịch UBND xã Tr, chủ trì; bà Hoàng Thị Thao U - chủ tịch UBMT xã Tr; ông Trần V - công chức văn phòng, thư ký; ông Hoàng Xuân Th, ông Trương Văn L, ông Hoàng Minh Q, ông Nguyễn Mạnh H và ông Lê Công M - đại diện thôn V; ông Nguyễn Xuân H, ông Nguyễn Minh H, bà Ngô Thị Q và bà Hoàng Thị L - đại diện thôn T; ông Nguyễn Cao C - nguyên đơn; ông Nguyễn Quyết T, ông Nguyễn Văn Th - bị đơn. Quá trình diễn ra cuộc họp, Nguyễn Cao C đứng dậy phát biểu nội dung “Cha của ông C có nhiều đóng góp trong việc vận động tiền để xây dựng nhà tang lễ, nên việc anh T thu tiền khi cha ông C chết là ông C không đồng ý”. Th đứng dậy ngắt lời “Chú V đưa lên cho tôi chứ không phải đưa cho T, T không lấy tiền đó” thì T liền nói “Cứ để ông C trình bày đã rồi mình nói sau”. Thấy vậy, C bức xúc nổi nóng và nói với T “Mi mà lấy tiền cha tau thì tau giết mi”. T thách thức lại “Mi chặt được thì cứ chặt, đụ mà chơi thì chơi luôn”, C lấy chiếc mũ nhựa trắng của mình để trên bàn ném T, nhưng không trúng. C tiếp tục lấy một chiếc ly thủy tinh lên để ném về phía T nhưng được mọi người căn ngăn và lấy ly thủy tinh cất đi. C tiếp tục vùng vằng cầm một chiếc ghế gỗ lên dọa ném về phía T thì được mọi người căn ngăn. Lúc này, Nguyễn Văn T là em trai của Nguyễn Cao C ở phía ngoài hội trường nghe có tiếng cãi nhau ở trong hội trường nên xông vào vị trí của T và Th đang ngồi đòi đánh thì được mọi người căn ngăn. C và T tiếp tục có những lời nói thô tục, thách thức và có hành vi đập bàn đe dọa đánh, giết T và Th. Thấy vậy, Th gọi điện thoại cho Mai Văn S và người nhà đến để hỗ trợ, một lúc sau Mai Văn S, Nguyễn Xuân C, Nguyễn Xuân Q, Nguyễn Quyết Ch đến và đi lên hội trường tầng hai thì gặp C và T đang được mọi người căn ngăn và đẩy ra khỏi phòng họp. Lúc này, hai bên lại tiếp tục có lời qua tiếng lại rồi lao vào xâu ẩu với nhau, trong khi xâu ẩu nhau thì T có đấm C một cái vào mặt. Cán bộ UBND xã Tr tiếp tục đẩy tách hai nhóm ra khỏi nhau, T và C được đẩy ra phía ngoài cổng của UBND xã Tr, còn nhóm của Th yêu cầu ngồi lại trụ sở. Khi ra khỏi trụ sở UBND xã thì T chạy về nhà lấy một con dao dài khoảng 40cm, lưỡi dao làm bằng kim loại rồi quay lại quán nước bên cạnh UBND xã ngồi đợi. Đến khoảng 10h30’ cùng ngày, Mai Văn S điều khiển xe mô tô ra khỏi cổng UBND xã Tr để về nhà thì T cầm dao chạy đuổi theo và trở sống dao chém một cái vào lưng của S, S giơ tay lên đỡ thì trúng vào cẳng tay phải và bàn tay trái. Sau đó lực lượng Công an nhân dân xã Tr ngăn chặn và khống chế đưa các đối tượng về trụ sở làm việc. Quá trình điều tra các đối tượng bị đánh với thương tích không đáng kể nên đều từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý về hành vi gây thương tích.
Vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra thu giữ một con dao dài 40cm, lưỡi dao làm bằng kim loại bị gỉ sét dài 30cm, cán dao làm bằng gỗ dài 10cm, đường kích 03cm; 01 mũ công trình làm bằng nhựa cứng, màu trắng; 03 đoạn video clip quay lại vụ việc.
Cáo trạng số 68/CT - VKSBT ngày 27 tháng 9 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Cao C và Nguyễn Văn T về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự.
Bản án sơ thẩm số 71/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình đã tuyên xử các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”. Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Cao C số tiền 30.000.000 đồng; Áp dụng khoản 1 Điều 318; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 20.000.000 đồng, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về áp dụng hình phạt và xử phạt các bị cáo khác, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Bản án sơ thẩm để truy tố, xét xử các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình giữ nguyên quan điểm với Quyết định kháng nghị phúc thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử sửa Bản án sơ thẩm số 71/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện B để truy tố, xét xử các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.
Áp dụng các điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Cao C 6-9 tháng Cải tạo không giam giữ.
Áp dụng các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 6-9 tháng Cải tạo không giam giữ.
Các bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đãđược tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình kháng nghị trong thời gian luật định nên kháng nghị hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Lời khai của các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ, do vậy có đủ cơ sở để kết luận:
Vào lúc 08h30 ngày 09/4/2021 tại trụ sở UBND xã Tr, đại diện chính quyền xã, Mặt trận tổ quốc xã, thôn V và thôn T đang tổ chức cuộc họp để trao đổi, hòa giải vụ việc giữa Nguyễn Cao C với anh Nguyễn Quyết T và anh Nguyễn Văn Th có lời nói xúc phạm lẫn nhau, Nguyễn Cao C có sử dụng mũ nhựa cứng ném về phía anh Th ngồi nhưng không trúng, sau đó tiếp tục cầm ly thủy tinh ở trên bàn và ghế nhựa dọa ném vào anh Nguyễn Quyết T và anh Nguyễn Văn Th. Nguyễn Văn T đã có hành vi về nhà lấy 01con dao dài 40cm, lưỡi dao làm bằng kim loại để đuổi và chém anh Mai Văn S trước trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tr (gây thương tích không đáng kể, anh S từ chối giám định thương tật).
Hành vi của các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Điều 318 Bộ luật hình sự.
[2] Xem xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Trong vụ án các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T mặc dù phạm tội không gây thiệt về người và tài sản nhưng làm ảnh hưởng và gây gián đoạn đến công việc của cán bộ công chức và những người dân đến làm việc tại trụ sở UBND xã Tr, gây bức xúc, tạo dư luận xấu trong nhân dân, hành vi của các bị cáo xâm phạm đến an toàn công cộng, ảnh hưởng đến công việc của cơ quan nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên cần xử lý nghiêm tương xứng với tính chất hành vi mà mỗi bị cáo thực hiện.
Đối với bị cáo Nguyễn Cao C khi thực hiện hành vi có sử dụng chiếc mũ nhựa cứng ném về phía anh Th, sau đó tiếp tục cầm ly thủy tinh và ghế nhựa để dọa ném vào anh Nguyễn Quyết T và anh Nguyễn Văn Th là những vật được xem là hung khí thuộc tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn T, bị cáo đã có hành vi về nhà lấy 01con dao, là hung khí nguy hiểm, dài 40cm, lưỡi dao bằng kim loại ngồi trước cổng Ủy ban xã, thấy anh S đi xe máy ra đã đuổi theo và trở sống dao chém 01 cái vào lưng của anh Mai Văn S. Xét thấy dao là hung khí nguy hiểm thuộc tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra Công an huyện B đã tách hành vi sử dụng dao gây tổn hại sức khỏe của người khác đối với bị cáo Nguyễn Văn T để xử phạt vi phạm hành chính, theo kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, Công an huyện B đã ra Quyết định số 01/QĐ-HB ngày 20/3/2022 về việc hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo Nguyễn Văn T.
Vì vậy cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình để sửa Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T đế xét xử các bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự. Xét thấy, bị cáo Cthực hiện hành vi mang tính bột phát do anh Th có lời lẽ xúc phạm, quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm, hai bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo C sau khi xét xử sơ thẩm đã tỏ ra hối hận về hành vi của mình, đã có công cứu cháu Th 06 tuổi (con chị H) bị đuối nước, quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo C có nhiều đóng góp vật chất cho cộng đồng trong thời gian dài, ủng hộ những người gặp hoàn cảnh khó khăn. Bị cáo T phạm tội một phần do bức xúc khi xâu ẩu bị đánh, tham gia với vai trò thứ yếu, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nguy hiểm, gia đình bị cáo có bố mẹ là người có công với cách mạng, do đó cần áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự cho hai bị cáo để các bị cáo thấy được chính sách nhân đạo của pháp luật, cho các bị cáo có cơ hội sửa chữa, tu dưỡng và rèn luyện để trở thành công dân có ích.
Do hai bị cáo công việc không ổn định, thu nhập thấp nên miễn khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355; điểm c khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, sửa bản án sơ thẩm.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Cao C 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Tr, huyện B, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt.
Miễn khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
2. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Các bị cáo Nguyễn Cao C, Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 24a/2022/HS-PT
Số hiệu: | 24a/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về