Bản án về tội đào ngũ số 11/2023/HS-ST

TÒA ÁN QUÂN SỰ KHU VỰC 1 QUÂN KHU 5

BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 01/08/2023 VỀ TỘI ĐÀO NGŨ

Ngày 01 tháng 8 năm 2023, tại Hội trường Trại tạm giam Quân đoàn 3, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2023/TLST-HS ngày 19/6/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 10/2023/QĐXXST- HS ngày 18/7/2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Phùng Nam S, sinh ngày 05/6/1994 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi ĐKNKTT: xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; cấp bậc, chức vụ, đơn vị khi phạm tội: B2, CS, a2, b7, c3, d1, e1, f2, Quân khu 5; nhập ngũ: tháng 02/2021; trình độ học vấn: Lớp 12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Phùng G, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: chưa bị kết án, xử lý vi phạm hành chính lần nào; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/4/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Quân đoàn 3; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thành Q, thuộc Văn phòng Luật sư Thành Q và cộng sự, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam; có mặt.

Những người làm chứng:

1. Ông Trương Minh T; có mặt.

2. Ông A Trần Minh H1; có mặt.

3. Ông Phạm Thanh T2; có mặt.

4. Ông Nguyễn Phú T3; có mặt.

5. Ông Lê Văn N; vắng mặt.

6. Ông Võ Chí C; vắng mặt.

7. Ông A M; có mặt.

8. Ông Nguyễn Văn Đ; có mặt.

9. Bà Nguyễn Thị H; có mặt.

10. Ông Nguyễn Phùng G; có mặt.

11. Bà Trần Thị H2; có mặt.

Đại diện Chỉ huy e1, f2, Quân khu 5 tham dự phiên tòa: 2// Lê Quang H2, Chính ủy; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Phùng Nam S, nhập ngũ 02/2021, được biên chế vào a2, b7, c3, d1, e1, f2, Quân khu 5. Quá trình công tác tại đơn vị, S bị bệnh trĩ nên ngày 13/5/2021 được chuyển đến điều trị tại Ban ngoại I, dQY24, f2, Quân khu 5.

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 20/5/2021, S trèo tường phía sau căng tin dQY24 trốn đi ra Quốc lộ 19, bắt xe khách đi đến thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Sáng ngày 21/5/2021, tại thành phố T, S tìm gặp người quen là chị Trần Thị H, chủ sở hữu tiệm thuốc tây GP tại phường T, để xin học việc bán thuốc, không nhận lương. Do đã quen biết từ trước nên Chị H2 đồng ý. S làm việc và sinh sống tại đây cho đến khi ra đầu thú. Trong thời gian này, để tránh sự nghi ngờ của chị H2 và sợ bị bắt trở lại đơn vị nên vào các dịp Tết Nguyên đán năm 2022 và năm 2023, S có về Công viên B tại thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi chơi nhưng không về nhà. Ngày 08/3/2022, S có về Quảng Ngãi dự sinh nhật mẹ.

Sau khi phát hiện Nguyễn Phùng Nam S tự ý rời khỏi đơn vị, e1, f2, Quân khu 5 đã cử cán bộ xuống phối hợp với địa phương, gia đình tìm kiếm S trở lại đơn vị nhưng không đạt kết quả. e1 đã 03 lần ra Thông báo quân nhân đào ngũ số 433/TB-TĐ ngày 28/5/2021, số 502/TB-TĐ ngày 20/6/2021, số 550/TB-TĐ ngày 05/7/2021, gửi Ủy ban nhân dân (UBND) xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; Ban Chỉ huy quân sự (CHQS) thị xã Đ, Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi và gia đình S.

Ngày 05/6/2021, d1, e1, f2, Quân khu 5 ban hành Quyết định số 05.21/QĐ-KL về việc thi hành kỷ luật đối với Nguyễn Phùng Nam S bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Đào ngũ”. Ngày 10/6/2021, d1 ban hành Thông báo số 01/TB-TĐ thông báo Quyết định kỷ luật đối với quân nhân đào ngũ và thông báo cho UBND xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; Ban CHQS thị xã Đ, Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi và gia đình S.

Tại Báo cáo số 79/BC-TĐ ngày 12/7/2021 của e1, f2, báo cáo vụ việc vi phạm kỷ luật của quân nhân Nguyễn Phùng Nam S gửi Cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 5 Quân khu 5, xác định Nguyễn Phùng Nam S vẫn chưa trở lại đơn vị.

Ngày 10/9/2021, Cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 5 Quân khu 5 ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Phùng Nam S về hành vi “Đào ngũ”. Quá trình điều tra không xác định được bị can đang ở đâu nên ngày 20/9/2021, Cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 5 Quân khu 5 ra Quyết định truy nã đối với S.

Sau khi biết mình bị khởi tố bị can và bị truy nã về hành vi “Đào ngũ” nên ngày 11/4/2023, Nguyễn Phùng Nam S đến đầu thú với Cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 5 Quân khu 5.

Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Phùng Nam S thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo khai nhận: Quá trình điều trị bệnh tại dQY24, f2, Quân khu 5, bị cáo nghĩ rằng sức khỏe không đảm bảo, tư tưởng không yên tâm công tác và không muốn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quân sự, nên khoảng 19 giờ 45 phút ngày 20/5/2021, bị cáo trèo qua tường rào phía sau căng tin dQY24 để trốn khỏi đơn vị. Sau khi ra ngoài, bị cáo đi ra Quốc lộ 19, bắt xe đi thành phố T, tỉnh Quảng Nam, đến chỗ người quen là chị Trần Thị H2, chủ tiệm thuốc tây “GP”, để xin học việc bán thuốc tây và được chị H2 đồng ý. Bị cáo làm việc và sinh sống tại đây. Khoảng thời gian sau đó, bị cáo có gặp gia đình tại thành phố Q; mẹ bị cáo ra Quảng Nam thăm bị cáo 02 lần; do sợ chị H2 nghi ngờ và sợ về nhà sẽ bị cha bắt trở lại đơn vị nên vào các dịp Tết Nguyên đán năm 2022 và 2023, bị cáo về Công viên BT tại thành phố Q nhưng không về nhà. Sau khi biết mình bị truy nã, đồng thời được sự động viên của chị H2 và gia đình nên ngày 11/4/2023, bị cáo ra đầu thú tại Cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 5 Quân khu 5.

Những người làm chứng A Trần Minh H1 (Bác sỹ phụ trách Ban ngoại I, dQY24, f2) và Phạm Thanh T2 (Y tá trực chuyên môn Ban Ngoại I) khai: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 20/5/2021, T2 đi kiểm tra bệnh nhân tại Ban ngoại I thì không thấy Nguyễn Phùng Nam S. T2 báo cáo anh H1 về việc quân nhân S vắng mặt tại đơn vị. Đơn vị tiến hành kiểm tra quân số, báo cáo chỉ huy d, lập biên bản về việc S vắng mặt trái phép. Đồng thời kiểm tra quân tư trang, tài sản đơn vị không phát hiện có mất mát gì. Quá trình điều trị bệnh, S chấp hành nghiêm kỷ luật, không mâu thuẫn với ai, không có biểu hiện gì bất thường.

Những người làm chứng Trương Minh T (dt, d1, e1) và Nguyễn Phú T3 (CTV, c3, d1, e1) khai: Quá trình học tập, công tác tại đơn vị, Nguyễn Phùng Nam S thuộc trường hợp cá biệt, không yên tâm công tác. Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 20/5/2021, sau khi nhận được tin báo về việc S không có mặt tại dQY, đơn vị tiến hành kiểm tra quân số và tìm kiếm S; liên lạc gia đình S để nắm thông tin nhưng không có kết quả. Đơn vị đã ra Quyết định về việc thi hành kỷ luật bằng hình thức "Cảnh cáo" đối với S về hành vi “Đào ngũ” theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Thông tư 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ Quốc phòng quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục, thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỷ luật trong Bộ Quốc phòng (Thông tư 16/2020/TT-BQP).

Người làm chứng Trần Thị H2 khai: Khoảng tháng 5/2021, S đến tiệm thuốc tây GP gặp tôi và xin học việc, vì quen biết từ trước nên tôi đồng ý. Tôi lo chi phí sinh hoạt và thuê trọ cho S ở. Một thời gian sau, S có nói với tôi việc S đang thực hiện nghĩa vụ quân sự và bỏ trốn nhưng không vi phạm pháp luật. Tôi có liên lạc với gia đình thì mẹ của S nói việc S trốn ra ngoài đã được giải quyết và nhờ tôi cho S ở lại học việc. Thời điểm này đang dịch Covid-19 căng thẳng, tiệm thuốc tây cần người làm, nên tôi không nghĩ ngợi nhiều mà để S tiếp tục làm việc. Đến tháng 4/2023, tôi biết được S phạm tội đào ngũ nên khuyên nhủ S trở về gia đình, về đơn vị để giải quyết. Ngày 10/4/2023, tôi chở S ra quốc lộ bắt xe về Quảng Ngãi. Thời gian làm việc cho tôi S không vi phạm pháp luật gì.

Lời khai người làm chứng Nguyễn Phùng G và Nguyễn Thị H (cha, mẹ của bị cáo): Sau khi sự việc xảy ra, cán bộ đơn vị nhiều lần xuống làm việc với gia đình, tìm cách liên lạc để động viên S trở lại đơn vị nhưng không đạt kết quả. Gia đình có nhận các văn bản và Thông báo đào ngũ của đơn vị. Công tác khám phúc tra sức khỏe của đơn vị đối với S có sai sót, đã chỉnh sửa Phiếu khám sức khỏe. S không đảm bảo sức khỏe để thực hiện nghĩa vụ quân sự. Sai sót của đơn vị là nguyên nhân dẫn đến việc S đào ngũ. Khoảng cuối tháng 3/2023, gia đình ra Quảng Nam để tìm luật sư cho S. Đến ngày 11/4/2023, chúng tôi đón S, cùng với luật sư đưa S đến cơ quan điều tra đầu thú.

Người làm chứng A M khai: Tôi là Tổ trưởng Tổ khám phúc tra sức khỏe chiến sĩ mới năm 2021. Ngày 01/3/2021, Tổ phúc tra đánh giá lại sức khỏe các quân nhân thuộc huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi, trong đó có Nguyễn Phùng Nam S. Quá trình khám, các nội dung khám chuyên khoa được phúc tra đầy đủ. Riêng về nội khoa: S đạt điểm 5 vì lý do nhịp xoang 107 lần/phút, chờ phúc tra lại vào cuối ngày hôm đó. Sau khi phúc tra lại thì S đạt điểm 3, nên kết luận điểm tổng đối với S là 3. Việc phúc tra lại nội dung này có lập biên bản. Ở mục “răng hàm mặt” vì anh Nguyễn Văn Đ phụ trách phần này nhầm lẫn kết quả khám từ điểm 3 lên điểm 2. Sau đó đồng chí Đ kiểm tra lại thì phát hiện và báo cáo nên tôi đã đồng ý cho đồng chí Đ sửa từ điểm 2 sang điểm 3. Nên trong Phiếu khám sức khỏe của S có sự chỉnh sửa 02 nội dung trên. Tuy nhiên, vấn đề này không ảnh hưởng đến việc S đủ điều kiện để phục vụ nghĩa vụ quân sự.

Cáo trạng số 10/CT-VKSQSKV52 ngày 16/6/2023 của Viện kiểm sát quân sự Khu vực 52 Quân khu 5 truy tố Nguyễn Phùng Nam S về tội "Đào ngũ" theo khoản 1 Điều 402 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Phùng Nam S. Kiểm sát viên phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; hậu quả của vụ án; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS); nhân thân bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng khoản 1 Điều 402; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 (bị cáo đầu thú; có cha là người có công cách mạng); khoản 1 Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phùng Nam S từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam, ngày 11/4/2023.

Luật sư Nguyễn Thành Q bào chữa cho bị cáo nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng. Cho rằng S “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, công tác khám phúc tra sức khỏe của Tổ phúc tra sức khỏe của đơn vị có sai sót; thực tế S không đảm bảo sức khỏe để thực hiện nghĩa vụ quân sự, là một phần nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của S. Đề nghị HĐXX xem xét nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ TNHS để áp dụng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Phùng Nam S nhất trí với lời bào chữa của luật sư. Cho rằng mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị là cao. Xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên đối đáp: Tội phạm mà bị cáo thực hiện đã làm ảnh hưởng đến công tác giáo dục, quản lý bộ đội, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, ảnh hưởng đến công tác tuyển quân tại địa phương, nên không thỏa mãn tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Về nguyên nhân điều kiện phạm tội liên quan đến vấn đề sức khỏe của mình, bị cáo đã không thực hiện quyền khiếu nại hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đã xem xét khách quan, toàn diện. Không chấp nhận quan điểm của bị cáo và người bào chữa.

Qua tranh luận, đối đáp, Kiểm sát viên và người bào chữa vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Đại diện e1, f2, Quân khu 5 cho biết: Hành vi đào ngũ của Nguyễn Phùng Nam S đã ảnh hưởng đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ và công tác quản lý giáo dục quân nhân, ảnh hưởng đến việc duy trì kỷ luật Quân đội, chế độ nền nếp chính quy của đơn vị. Đề nghị HĐXX xem xét quyết định một mức án phù hợp để bị cáo sớm hòa nhập với gia đình và xã hội.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin lỗi gia đình, xin lỗi đơn vị. Mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 5 Quân khu 5, Điều tra viên, Viện kiểm sát quân sự Khu vực 52 Quân khu 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có cơ sở khẳng định hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Sau khi thẩm tra lời khai của bị cáo và những người làm chứng. Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. HĐXX xác định: Nguyễn Phùng Nam S nhập ngũ tháng 02/2021 được biên chế vào a2, b7, c3, d1, e1, f2, Quân khu 5. Trong thời gian điều trị bệnh tại Ban ngoại I, dQY24, f2, vì cảm thấy gò bó, tư tưởng không yên tâm công tác và không muốn tiếp tục phục vụ trong Quân đội, nên khoảng 19 giờ 45 phút ngày 20/5/2021, bị cáo trèo qua tường rào phía sau căng tin dQY24 để trốn khỏi đơn vị, bắt xe đi thành phố T, tỉnh Quảng Nam xin học việc bán thuốc tây, sinh sống và không trở về đơn vị nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đến ngày 11/4/2023, bị cáo biết mình bị truy nã nên đã ra đầu thú tại cơ quan điều tra.

Ngày 05/6/2021, d1, e1, f2 ra Quyết định số 05.21/QĐ-KL về việc thi hành kỷ luật đối với Nguyễn Phùng Nam S bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Đào ngũ” đúng quy định và thực hiện đầy đủ việc phối hợp truy tìm, ra thông báo đào ngũ về gia đình, địa phương, nhưng quá 30 ngày S vẫn không trở lại đơn vị, nên xác định hành vi của S thuộc trường hợp “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” quy định tại khoản 4 Điều 42 Thông tư 16/2020/TT-BQP. HĐXX kết luận bị cáo Nguyễn Phùng Nam S phạm tội "Đào ngũ" quy định tại khoản 1 Điều 402 BLHS.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể quan trọng được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội, xâm hại chế độ thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân, làm ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị và truyền thống tốt đẹp của người quân nhân.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã đầu thú; có cha là ông Nguyễn Phùng G được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì, nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, lỗi, hậu quả của vụ án, tình tiết giảm nhẹ TNHS; nhân thân bị cáo; đặc biệt về nguyên nhân, điều kiện phạm tội (bị cáo nhận thức đơn giản, tình trạng sức khỏe ảnh hưởng một phần nhất định đến tư tưởng và quyết định bỏ trốn khỏi hàng ngũ quân đội).

HĐXX quyết định mức hình phạt tù phù hợp, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời làm bài học răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Xét quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Phùng Nam S là có căn cứ chấp nhận.

Đối với quan điểm của người bào chữa, HĐXX thấy rằng hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, cố ý không thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của công dân đối với Tổ quốc; ảnh hưởng đến công tác giáo dục, quản lý bộ đội, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, công tác tuyển quân tại địa phương và kỷ luật, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Tuy tội phạm là ít nghiêm trọng nhưng không thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Không có căn cứ chấp nhận quan điểm của người bào chữa đề nghị áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Phùng Nam S phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phùng Nam S phạm tội "Đào ngũ".

Áp dụng khoản 1 Điều 402; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phùng Nam S 18 (mười tám) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bị tạm giam, ngày 11/4/2023.

2. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 BLTTHS, bị cáo Nguyễn Phùng Nam S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 01/8/2023), bị cáo có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án quân sự Quân khu 5.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đào ngũ số 11/2023/HS-ST

Số hiệu:11/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án quân sự
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về