Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 76/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 76/2021/HS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 06 năm 2021, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 60/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 04 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 05 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Chí Đ, sinh năm 1994, tại Đồng Nai; Hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Chổ ở hiện nay: Ấp T, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: Lớp 02/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn C (chết) và bà Nguyễn Thị Mỹ C1, sinh năm 1964; vợ con chưa có; tiền án: Ngày 25/7/2017 bị TAND huyện N, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, đến ngày 07/11/2019 đã chấp hành xong án phạt tù nhưng chưa thi hành án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 03/07/2013, bị UBND huyện N, tỉnh Đồng Nai đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục L1 động xã hội tỉnh Đồng Nai, đến ngày 20/6/2015 đã chấp hành xong. Bị bắt tạm giữ từ ngày 06/01/2021.

2. Nguyễn Văn T1 (tên gọi khác: Tư), sinh năm 1950, tại Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp T, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa:

08/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1914 (chết) và bà Bao Thị T2, sinh năm 1964; vợ: Huỳnh Thị B, sinh năm 1953 (đã ly hôn) và có 01 con, sinh năm 1979; tiền án: Ngày 10/11/1999 bị TAND tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa” đã chấp hành xong án phạt chính nhưng chưa thi hành án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 06/01/2021 đến ngày 14/01/2021 được tại ngoại điều tra.

3. Dương Quốc S (tên gọi khác: Tèo), sinh năm 1972, tại Đồng Nai, nơi cư trú: Ấp 4 xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông D Quốc P1, sinh năm 1938 và bà Phan Thị M, sinh năm 1940; có vợ Lê Thị Thu T3, sinh năm 1972 và 02 con (lớn sinh năm 1997; nhỏ sinh năm 2007); Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 25/03/1999, có hành vi “Chống người thi hành công vụ” bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù giam đến ngày 02/12/1999 trở về hòa nhập cộng đồng; Bị bắt tạm giữ ngày 06/01/2021 đến ngày 14/01/2021 được tại ngoại điều tra.

4. Thái Thanh L1, sinh năm 1968, tại Bạc Liêu, Nơi cư trú: Khóm N1, phường N1, T1 phố B1, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; con ông Thái Văn N2 (chết) và bà Nguyễn Thị X (chết); có chồng tên Võ Thanh S1 (chết) và có 01 con sinh năm 1986; Tiền án: Ngày 28/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 tháng 10 ngày tù giam về tội “Đánh bạc”; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 06/01/2021.

5. Huỳnh Phước T4 (tên gọi khác; Khuôn), sinh năm 1989, tại Đồng Nai, nơi cư trú: Ấp B2, xã P2, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Văn Y, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1968; vợ con chưa có; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/04/2020, có hành vi Đánh bạc bị Cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh Đồng Nai khởi tố điều tra hiện đang được tại ngoại chờ xét xử, đến; bị bắt tạm giữ từ ngày 06/01/2021.

6. Nguyễn Thị M1, sinh năm 1983, tại Nghệ An, nơi cư trú: Khu phố 3, phường B3, T1 phố T5, T1 phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Văn C2, sinh năm 1968 (chết) và bà Phan Thị P3, sinh năm 1964; có chồng Lê Minh H, sinh năm 1983 và 03 con (lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2020); tiền án; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 06/01/2021 đến ngày 08/01/2021 được tại ngoại điều tra.

7. Nguyễn Thị E (tên gọi khác: Hoa), sinh năm 1971, tại Đồng Nai, nơi cư trú: Ấp B4, xã Đ1, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn M2, sinh năm 1940 và bà Nguyễn Thị B5, sinh năm 1944; có chồng Hùynh Văn L2, sinh năm 1971 và 01 con sinh năm 1991); tiền án; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 06/01/2021 đến ngày 14/01/2021 được tại ngoại điều tra.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn có tiền tiêu sài. Nên Nguyễn Chí Đ nảy sinh ý định tổ chức đánh bạc với hình thức tổ chức đánh bài binh xập xám được thua bằng tiền, có người cầm cái xoay vòng 02 ván liên tục tại nhà của Đ thuộc ấp T, xã V, huyện N để thu tiền xâu. Đ chuẩn bị chăn, bài, nước uống.... để phục vụ cho các con bạc đánh bạc và dùng điện thoại di động hiệu 0ppo màu xanh sim số 0789.650.903 để rũ các con bạc đến đánh bạc. Hình thức thu tiền xâu: nếu người đánh bạc làm cái thắng 02 ván liên tục thì phải đóng tiền xâu cho Đ từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng tùy vào số tiền thắng bạc nhiều hay ít.

Vào khoảng 20 giờ ngày 05/01/2021, Đ đã tổ chức khoảng 10 con bạc gồm: Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Huỳnh Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1 và Nguyễn Thị E đánh bạc với nhau hình thức đánh bài binh xập xám được thua bằng tiền cụ thể như sau:

- Nguyễn Văn T1 mang theo 14.000.000 đồng để đánh bạc; T1 tham gia được 07 ván, mỗi ván đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Khi bị bắt T1 thua hết 300.000 đồng, còn lại 13.700.000 đồng, bị Cơ quan Công an thu giữ.

- Dương Quốc S mang theo 10.000.000 đồng để đánh bạc; S tham gia đặt cược được 10 ván (trong đó S làm cái 02 ván), mỗi ván đặt 200.000 đồng. Ván thứ 10 S đang đặt 500.000 đồng thì bị bắt. Khi bị bắt thì S thua hết 1.000.000 đồng, số tiền 500.000 đồng đặt cược bị thu giữ tại chiếu bạc, còn lại 8.500.000 đồng, bị Cơ quan Công an thu giữ.

- Huỳnh Phước T4 tham gia đánh bạc cùng với tên V1 (không rõ nhân thân) với vai trò là người làm cái T4 và V1 bị thua hết 1.500.000 đồng, khi bị bắt V1 đã bỏ chạy trốn thoát.

- Thái Thanh L1 mang theo 300.000 đồng đến đánh bạc; L1 tham gia được 02 ván, ván thứ nhất L1 đặt 200.000 đồng bị thua, ván thứ 02 L1 đặt 100.000 đồng thì bị bắt quả tang, số tiền 100.000 đồng đang đặt cược bị thu giữ tại chiếu bạc.

- Nguyễn Thị M1 mang theo 300.000 đồng M1 dùng 150.000 đồng để đánh bạc; M1 tham gia được 03 ván mỗi ván đặt 50.000 đồng và bị thua hết 150.000 đồng, M1 nghỉ không chơi nữa thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang, thu giữ thu giữ 150.000 đồng còn lại không dùng vào việc đánh bạc.

- Nguyễn Thị E mang theo 300.000 đồng để đánh bạc; E tham gia 03 ván mỗi ván đặt từ 100.000 đồng một ván thắng và 01 ván thua, ván thứ 03 đang đặt thì bị bắt quả tang, số tiền 300.000 đồng đang đặt cược thì bị thu giữ tại chiếu bạc.

Các con bạc đánh với nhau đến 22 giờ 50 phút cùng ngày, Đ thu được 250.000 đồng tiền xâu thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Huỳnh Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1 và Nguyễn Thị E cùng tang vật; riêng Vũ và những người không rõ nhân thân bỏ chạy trốn thoát. Số tiền thu giữ tại chiếu bạc dùng vào đánh bạc là 13.500.000 đồng; số tiền thu giữ trên người các con bạc dùng vào việc đánh bạc là 22.000.000 đồng (gồm:

13.700.000 đồng thu của Nguyễn Văn T1, 8.500.000 đồng thu của Dương Quốc S) và thu giữ của Nguyễn Thị M1 số tiền 150.000 đồng không dùng vào việc đánh bạc.Tổng số tiền các con bạc dùng vào việc đánh bạc ngày 05/01/2021 là 35.700.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa làm rõ được trước khi bị bắt Nguyễn Chí Đ còn khai nhận cho nhiều người không rõ nhân thân, nhưng không xác định được thời gian và số tiền dùng vào việc đánh bạc; đã thu lợi bất chính được 1.000.000 đồng tiền xâu.

Đối với đối tượng tên “D” và “V1” và một số đối tượng khác tham gia đánh bạc vào ngày 05/01/2021 do chưa xác định được nhân thân lai lịch cụ thể nên Cơ quan điều tra Công an huyện N tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

- Về tình tiết tăng nặng: Các bi can Nguyễn Chí Đ, Nguyễn Văn T1 và Thái Thanh L1 phạm tội thuộc trường hợp tái pham theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị can Nguyễn Thị E, Nguyễn Thị M1 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; T1 khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Các bị can Nguyễn Chí Đ, Dương Quốc S, Thái Thanh L1, Huỳnh Phước T4 T1 khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Nguyễn Văn T1, T1 khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình.

* Tang vật thu giữ gồm:

+ Số tiền dùng vào việc đánh bạc là: 35.700.000 đồng (gồm: 13.500.000 đồng thu tại chiếu bạc; 22.200.000 đồng (trong đó 13.700.000đ thu của Nguyễn Văn T1, 8.500.000đ thu của Dương Quốc S sử dụng vào việc đánh bạc); 09 bộ bài tây 52 lá (gồm: 01 bộ đã qua sử dụng; 08 bộ chưa qua sử dụng); 250.000 đồng thu của Nguyễn Chí Đ (thu xâu từ việc tổ chức đánh bạc); 150.000 đồng của Nguyễn Thị M1 (không dùng vào việc đánh bạc).

+ 07 chiếc điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng xanh, gắn sim số 0789.650.903 của Nguyễn Chí Đ (sử dụng điện thoại rủ người đánh bạc); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Dương Quốc S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh của Nguyễn Văn T1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xám của Thái Thanh L1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Nguyễn Thị M1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ Nguyễn Thị E; Tạm giữ: 08 chiếc điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh của Nguyễn Chí Đ dùng vào việc đánh bạc, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của Dương Quốc S, 01 điện thoại di động hiệu 0ppo màu xanh của Nguyễn Văn T1, 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám của Thái Thanh L1, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của Nguyễn Thị M1, 01 điện thoại di động hiệu 0ppo màu đỏ của Nguyễn Thị E; 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 60Y3-6296 của Nguyễn Văn T1 không dùng vào việc đánh bạc.

Tại bản cáo trạng số 58/CT.VKS-NT ngày 16/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai truy tố:

+ Bị cáo Nguyễn Chí Đ về tội “tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự.

+ Các bị cáo Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị:

+ Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Đ từ 14 đến 16 tháng tù.

+ Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt bị cáo Thái Thanh L1 từ 06 đến 08 tháng tù + Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Phước T4 từ 06 đến 08 tháng tù.

+ Căn cứ khoản 3 Điều 322 Bộ luật hình sự;

- Phạt bị cáo Nguyễn Chí Đ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự;

- Phạt bị cáo Thái Thanh L1 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Phạt bị cáo Nguyễn Phước T4 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

+ Căn cứ Điều 35; khoản 1 Điều 321; điểm s, o khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 số tiền 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng; .

+ Căn cứ Điều 35; khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt các bị cáo: Dương Quốc S từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng; Nguyễn Thị M1 và Nguyễn Thị E mỗi bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

- Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Tòa tuyên:

+ Đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 35.700.000 đồng. Trong đó 13.500.000 đồng thu tại chiếu bạc; 22.200.000 đồng (gồm 13.700.000 đồng của Nguyễn Văn T1 và 8.500.000 đồng của Dương Quốc S sử dụng để đánh bạc); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng xanh, gắn sim số 0789.650.903 của Nguyễn Chí Đ (sử dụng điện thoại rũ người đánh bạc) và 1.250.000 đồng Nguyễn Chí Đ thu xâu từ việc tổ chức đánh bạc mà có.

+ Tịch thu tiêu hủy 09 bộ bài tây 52 lá (gồm: 01 bộ đã qua sử dụng; 08 bộ chưa qua sử dụng).

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên Tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Các bị cáo Nguyễn Chí Đ, Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên, các bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xE xét giảm nhẹ mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà ngày hôm nay các bị cáo: Nguyễn Chí Đ, sinh năm 1994; Nguyễn Văn T1, sinh năm 1950; Dương Quốc S, sinh năm 1972; Nguyễn Phước T4, sinh năm 1989; Thái Thanh L1, sinh năm 1968; Nguyễn Thị M1, sinh năm 1983; Nguyễn Thị E, sinh năm 1971 có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thừa nhận:

Vào ngày 05/01/2021, tại nhà bị cáo Nguyễn Chí Đ thuộc ấp T, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Bị Cáo Nguyễn Chí Đ đã có hành vi chuẩn bị chăn, bài, nước uống.... và điện thoại rũ con bạc gồm: Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Huỳnh Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1 và Nguyễn Thị E và một số người khác (chưa rõ nhân thân) tổ chức cho họ đánh bạc với nhau với hình thức đánh bài binh xập xám, có người cầm cái xoay vòng 02 ván liên tục ăn thua bằng tiền. Cụ thể:

- Nguyễn Văn T1 mang theo 14.000.000 đồng để đánh bạc; T1 tham gia được 07 ván, mỗi ván đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Khi bị bắt T1 thua hết 300.000 đồng, còn lại 13.700.000 đồng.

- Dương Quốc S mang theo 10.000.000 đồng để đánh bạc; S tham gia được 10 ván (trong đó S làm cái 02 ván), mỗi ván đặt 200.000 đồng. Ván thứ mười S đang đặt 500.000 đồng thì bị bắt. Khi bị bắt thì S thua hết 1.000.000 đồng, số tiền 500.000 đồng đặt cược bị thu giữ tại chiếu bạc, còn lại 8.500.000 đồng.

- Huỳnh Phước T4 tham gia đánh bạc cùng với tên Vũ (không rõ nhân thân) với vai trò là người làm cái T4 và Vũ bị thua hết 1.500.000 đồng.

- Thái Thanh L1 mang theo 300.000 đồng để đánh bạc; L1 tham gia được 02 ván, ván thứ nhất đặt 200.000 đồng bị thua, ván thứ hai đặt 100.000 đồng thì bị bắt quả tang, còn lại số tiền 100.000 đồng đang đặt cược bị thu giữ tại chiếu bạc.

- Nguyễn Thị M1 mang theo 300.000 đồng M1 dùng 150.000 đồng để đánh bạc; M1 tham gia được 03 ván mỗi ván đặt 50.000 đồng và bị thua hết 150.000 đồng thì nghỉ không chơi nữa, còn lại số tiền 150.000 đồng (không dùng vào việc đánh bạc).

- Nguyễn Thị E mang theo 300.000 đồng để đánh bạc; E tham gia 03 ván mỗi ván đặt mỗi ván 100.000 đồng một ván thắng và 01 ván thua, ván thứ ba đang đặt thì bị bắt quả tang số tiền 300.000 đồng đang đặt cược.

Đến 20 giờ 00 phút cùng ngày thì bị Công an bắt quả tang thu Tổng số tiền các con bạc dùng vào việc đánh bạc ngày 05/01/2021 là 35.700.000 đồng (gồm:

13.500.000 đồng thu tại chiếu bạc; 22.200.000 đồng thu của Nguyễn Văn T1, và Dương Quốc S sử dụng vào việc đánh bạc).

Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Cho thấy bị cáo Đ đã tổ chức cho các con bạc gồm: Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E và một số người khác….đánh bạc với nhau bằng hình thức đánh bài ăn thua bằng tiền với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 35.700.000 đồng (trên 5.000.000 đồng về hành vi đánh bạc; trên 20.000.000 đồng về hành vi tổ chức đánh bạc) và hành vi phạm tội đã thực hiện xong.

* Nên có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo:

+ Nguyễn Chí Đ phạm tội “tổ chức đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

+ Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Do đó, cáo trạng số 58/CT.VKS-NT ngày 16/04/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ.

[3]. Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;

- Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Chí Đ bị UBND huyện N, tỉnh Đồng Nai đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục L1 động xã hội tỉnh Đồng Nai; bị cáo Nguyễn Phước T4 đã bị khởi tố về tội này trong vụ án khác chưa xét xử xong; Bị cáo S bị TAND huyện N, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù giam do có hành vi “Chống người thi hành công vụ”, đã được xóa án tích.

- Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Nguyễn Chí Đ, Thái Thanh L1, Nguyễn Văn T1 có một tiền án, chưa được xóa án tích.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo T1 khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng các tình tiết giảm quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Văn T1 sinh năm 1950 thuộc trường hợp người đã đủ 70 tuổi nên còn đươc hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Chí Đ tự nguyện nôp số tiền thu lợi bất chính nên còn đươc hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tính chất, mức độ của hành vi: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng đối với tội “tổ chức đánh bạc” và ít nghiêm trọng đối với tội “đánh bạc”, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an tại địa phương, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác.

Xét vai trò của các bị cáo:

- Đối với bị cáo Nguyễn Chí Đ là người chủ mưu, cầm đầu, trực tiếp thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc, thu lợi bất chính với số tiền 250.000 đồng, bản thân có một tiền án chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp tái phạm và nhân thân xấu bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nên cần xét xử nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo T1 người công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật.

- Đối với các bị cáo Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E phạm tội thuộc đồng phạm giản đơn, đều tích cực phạm tội tham gia đánh bạc nên cần được xét xử nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo cụ thể:

+ Bị cáo Thái Thanh L1 đã có một tiền án, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp tái phạm; bị cáo Nguyễn Phước T4 đang bị khởi tố về tội này trong vụ án khác, trong thời gian tại ngoại điều tra lại tiếp tục phạm tội thể hiện thiếu ý thức chấp hành pháp luật, nên cũng cần xét xử nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục. Ngoài ra cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật.

+ Bị cáo Nguyễn Văn T1, ngày 10/11/1999 bị TAND tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa” đã chấp hành xong án phạt chính nhưng chưa thi hành án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo cho rằng đã nộp án phí hình sự sơ thẩm xong nhưng không có căn cứ gì để chứng minh và Cơ quan thi hành án cũng không thụ lý, ra quyết định thi hành án về án phí đối với bị cáo nên vẫn còn tiền án, thuộc trường hợp tái phạm. Tuy nhiên xét cho bị cáo thời gian chấp hành hình phạt đã lâu, chấp hành tốt chủ trương, đường lối chính sách của nhà nước, thể hiện là công dân tốt, có ích cho xã hội. Mặt khác bị cáo đã đủ 70 tuổi thuộc trường hợp người già yếu, xét không cần áp dụng hình phạt giam mà áp dụng khoản 1 Điều 35 phạt tiền đối với bị cáo cũng đủ tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

+ Bị cáo Dương Quốc S, ngày 10/07/1999 bị TAND huyện N xử phạt 06 tháng tù về tội chống người thi hành công vụ đã được xóa án tích. Tuy nhiên xét cho bị cáo thời gian chấp hành hình phạt đã lâu, bị cáo luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối chính sách của nhà nước, thể hiện công dân tốt có ích cho xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà áp dụng khoản 1 Điều 35 phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

+ Bị cáo Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự trong thời gian tại ngoại không có vi phạm gì, thể hiện việc tự cải tạo bản thân tốt. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà áp dụng khoản 1 Điều 35 phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

* Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là phù hợp với nhận định trên nên Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4]. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Số tiền 35.700.000 đồng. Trong đó 13.500.000 đồng thu tại chiếu bạc;

22.200.000 đồng (gồm 13.700.000 đồng của Nguyễn Văn T1 và 8.500.000 đồng của Dương Quốc S sử dụng để đánh bạc); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng xanh, gắn sim số 0789.650.903 của Nguyễn Chí Đ sử dụng điện thoại rủ người đánh bạc và 1.250.000 đồng Nguyễn Chí Đ thu xâu từ việc tổ chức đánh bạc - là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội và khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội, cần tịch thu sung quỹ nhà nước là có căn cứ.

+ 09 bộ bài tây 52 lá (gồm: 01 bộ đã qua sử dụng; 08 bộ chưa qua sử dụng) bị cáo sử dụng để đánh bạc, là công cụ phương tiện sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

+ 07 chiếc điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Dương Quốc S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh của Nguyễn Văn T1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xám của Thái Thanh L1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Nguyễn Thị M1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ và 150.000 đồng của Nguyễn Thị E; 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát:

60Y3-6296 của Nguyễn Văn T1 không dùng vào việc đánh bạc, không phải là công cụ phương tiện phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho các bị cáo là thỏa đáng.

Đối với Chí Đ khai nhận tổ chức đánh bạc trước 02 lần, do không xác định được thời gian, số tiền dùng vào việc đánh bạc nên chưa đủ căn cứ để xử lý, Cơ quan điều tra tiếp tục xử lý sau là có cơ sổ.

Đối với 01 người tên D, Vũ và một số đối tượng khác có tham gia đánh bạc vào ngày 05/01/2021 do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra ttiếp tục tục xác minh làm rõ xử lý sau là có cơ sở [5]. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Chí Đ, Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn T1 (do là người cao tuổi) theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1, Điều 322; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí Đ phạm tội “tổ chức đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Thái Thanh L1 phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm s, o khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T1 phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố các bị cáo Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E, phạm tội “Đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Đ 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2021.

- Xử phạt bị cáo Thái Thanh L1 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2021.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Phước T4 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2021.

Căn cứ khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 40.000.000 đồng (bốn chục triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Dương Quốc S 40.000.000 đồng (bốn chục triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M1 20.000.000 đồng (hai chục triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị E 20.000.000 đồng (hai chục triệu đồng).

Căn cứ khoản 3 Điều 322 Bộ luật hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Phạt bị cáo Nguyễn Chí Đ 30.000.000 đồng (ba chục triệu đồng).

Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Phạt bị cáo Thái Thanh L1 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

- Phạt bị cáo Nguyễn Phước T4 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu số tiền 36.950.000 đồng (gồm 13.500.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc; 13.700.000 đồng của Nguyễn Văn T1 và Dương Quốc S); 1.250.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng xanh, gắn sim số 0789.650.903 của Nguyễn Chí Đ sung quỹ nhà nước.

- Tịch thu 09 bộ bài tây 52 lá (gồm: 01 bộ đã qua sử dụng; 08 bộ chưa qua sử dụng) tiêu hủy.

(Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện N đang tạm giữ theo biên lai thu tiền số 001396 ngày 12/5/2021; biên lai thu số 001376 và biên bản giao nhận cùng ngày ngày 19/04/2021).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luât tố tụng hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Buộc các bị cáo: Nguyễn Chí Đ, Nguyễn Văn T1, Dương Quốc S, Nguyễn Phước T4, Thái Thanh L1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị E mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn T1.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 76/2021/HS-ST

Số hiệu:76/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về