Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 51/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 51/2021/HS-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thường Tín xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 39/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2021/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Vương Văn T, sinh năm 1980 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Vương Minh Đức và bà Đặng Thị Kim; Vợ là Nguyễn Thị Hân, sinh năm 1981; Có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt).

2. Nguyễn Văn M, sinh năm 1964 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 05/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị Th; Vợ là Đặng Thị T1, sinh năm 1962; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt).

3. Đặng Văn T2, sinh năm 1992 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đặng Văn L (tên khác Đặng Xuân L) và bà Lê Thị Xoa; Vợ là Phạm Thị H, sinh năm 1993; Có 03 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt)

4. Nguyễn Văn Th, sinh năm 1981 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị Tâm; Vợ là Vương Thị N, sinh năm 1984; Có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt)

5. Đào Văn L, sinh năm 1982 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đào Văn N và bà Lương Thị Mỳ; Vợ là Hoàng Thị P, sinh năm 1984; Có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt)

6. Vương Thế M, sinh năm 1964 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Vương Hải B và bà Dương Thị Q; Vợ là Nguyễn Thị H1, sinh năm 1965; Có 02 con, lớn sinh năm 1987, nhỏ sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt)

7. Phạm Văn N, sinh năm 1989 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Phạm Văn L và bà Trần Thị H; Vợ là Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1992;có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt)

8. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1970 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 7/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn Y và bà Nguyễn Thị C; Vợ là Nguyễn Thị M, sinh năm 1975; Có 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1994; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt)

9. Trần Văn T3, sinh năm 1977 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Văn T4 và bà Nguyễn Thị Thanh Th; Vợ là Bùi Thị Lan A1, sinh năm 1976; Có 04 con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 23/1/2021 (Có mặt)

10. Mai Xuân Q, sinh năm 1990 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Mai Văn Th1 và bà Vương Thị H; vợ là Lương Thị Thu P, sinh năm 1994; có 02 con, lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam (Có mặt)

11. Nguyễn Văn T5 (tên gọi khác T), sinh năm 1990 tại Hà Nội; Trú tại thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn H3 và bà Nguyễn Thị X; Vợ là Vương Thị T4, sinh năm 1993; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam (Có mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Vương Minh Đ, sinh năm 1960. HKTT: Thôn Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vì cho rằng mẹ mình đi chữa bệnh ở bệnh viện về sẽ có nhiều người đến chơi nên Vương Văn T nảy sinh ý định tổ chức đánh bạc tại nhà mình. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/01/2021, Vương Văn T đi đến nhà Đặng Văn T2 và bảo Tr: “tối đến nhà anh chia bài, xong anh trả công 100.000 đồng”, Trọng đồng ý. Trên đường đi về, Tiến gặp và bảo Nguyễn Văn M: “tối chú đến chia bài cho cháu, cháu trả công chú 100.000 đồng”, Min đồng ý. Sau đó, Tiến đi về nhà tiếp tục uống rượu cùng với Thường và Duy. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Vương Văn T , Thường và anh Duy đi xuống khu vực chuồng lợn đã được cải tạo và lát gạch của nhà Vương Văn T để uống nước thì thấy Trọng đã đến. Lúc này, Đào Văn L, Nguyễn Văn Th (tên gọi khác là Ty), Mai Xuân Q đi đến nhà Vương Văn T chơi. Thấy có đủ người chơi, Vương Văn T nói với mọi người: “Đủ chân rồi, anh em làm tí đi” (ý là bảo Thường, Q, L, Tình đánh chắn được thua bằng tiền) thì tất cả đồng ý. Vương Văn T lấy một đĩa sứ, một khay nhựa màu trắng đục, hai bộ bài chắn (một bộ màu đỏ, một bộ màu trắng) đưa cho Trọng để Trọng ngồi chia bài cho L, Thường, Tình, Q (bàn số 1) chơi đánh chắn được thua bằng tiền, anh Duy không chơi mà đi về. Một lúc sau, Trần Văn T3, Phạm Văn N, Nguyễn Văn Đ, Vương Thế M đi đến nhà Vương Văn T ngồi uống nước, Vương Văn T bảo những người này: “Đủ chân rồi đấy, anh em làm thêm bàn nữa đi” (ý là bảo Nam, Miền, Trần Văn T3, Đông chơi đánh chắn được thua bằng tiền), tất cả đồng ý. Vương Văn T gọi Min đến chia bài và lấy ra một đĩa sứ, hai bộ bài chắn (một bộ màu đỏ, một bộ màu trắng), 01 khay nhựa màu hồng đưa cho Min để Min chia bài cho Trần Văn T3, Nam, Đông, Miền (bàn số 2) đánh chắn được thua bằng tiền. Sau đó, anh Duy, anh Nguyễn Văn V , anh Trần Văn B lần lượt đến nhà Vương Văn T ngồi chơi, không tham gia đánh bạc. Cách chơi đánh chắn như sau: dùng một bộ bài chắn 100 quân chia đều cho mỗi người được 19 quân bài, người cái được 20 quân bài, còn lại là lọc. Sau đó, người chơi đánh vòng trò, người cái đánh đầu tiên, ai tròn bài thì ù, hai bàn đều quy định mỗi người chơi gom 200.000 đồng (mỗi người chơi góp số tiền 200.000 đồng vào đĩa sứ gọi là lọc), ù xuông được số tiền 100.000 đồng, dịch được số tiền 50.000 đồng. Quá trình chơi, những người chơi phải trả cho Vương Văn T số tiền 300.000 đồng/bàn chắn là tiền hồ phế, số tiền này lấy từ tiền gom trên lọc và Vương Văn T sẽ lấy số tiền đó trả cho mỗi người chia bài 100.000 đồng. Các đối tượng trên chơi đến 22 giờ 50 phút cùng ngày thì Công an huyện Thường Tín bắt quả tang , bắt giữ Vương Văn T, Thường, L, Đông, Miền, Nam, Trần Văn T3, Min và Trọng và thu giữ tang vật bao gồm:

- Thu giữ tại bàn số 1: 02 bộ bài chắn (01 bộ màu trắng, 01 bộ màu đỏ); 01 đĩa sứ; 01 khay nhựa màu trắng đục; số tiền 22.450.000 đồng, trong đó thu dưới chiếu bạc số tiền 11.100.000 đồng (gồm 900.000 đồng trong lọc, 300.000 đồng tiền hồ phế đã bỏ ra chiếu , 9.900.000 đồng ở vị trí L ngồi) và 11.350.000 đồng trên người Nguyễn Văn Th.

- Thu giữ tại bàn thứ 2: 02 bộ bài chắn (01 bộ màu trắng, 01 bộ màu đỏ); 01 đĩa sứ; 01 khay nhựa màu hồng; số tiền 11.450.000 đồng, trong đó thu dưới chiếu bạc số tiền 4.500.000 đồng (gồm 500.000 đồng trong lọc, 300.000 đồng hồ phế ở góc chiếu, 2.000.000 đồng ở vị trí Nam ngồi, 1.200.000 đồng ở vị trí Miền ngồi, 500.000 đồng ở vị trí Đông ngồi) và thu giữ trên người của Nam số tiền 1.600.000 đồng, của Miền số tiền 3.500.000 đồng, của Đông số tiền 1.050.000 đồng và của Min số tiền 800.000 đồng.

Nguyễn Văn Th và Mai Xuân Q bỏ chạy, đến ngày 26/01/2021 Tình và Q ra đầu thú.

Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKSTT ngày 18 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín đã truy tố Vương Văn T, Nguyễn Văn M và Đặng văn T2 về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; truy tố Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Vương Thế M, Phạm Văn N, Nguyễn Văn Đ, Trần Văn T3, Mai Xuân Q, Nguyễn Văn Th về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Điều Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị áp dụng pháp luật và xử phạt:

+ Điểm a, c khoản 1 Điều 322, Điều 65, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt Vương Văn T từ 15-18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30-36 tháng.

+ Điểm a, c khoản 1 Điều 322, Điều 65, điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt Đặng văn T2, Nguyễn Văn M từ 12 - 15 tháng tù tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 - 30 tháng;

+ Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS, xử phạt Nguyễn Văn Th, Đào Văn L từ 09 - 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 – 24 tháng;

+ Khoản 1 Điều 321, Điều 65, điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt Nguyễn Văn Đ, Vương Văn Miền từ 06-09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12-18 tháng;

+ Khoản 1 Điều 321, Điều 36, điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt Phạm Văn N, Trần Văn T3 từ 09-12 tháng cải tạo không giam giữ ;

+ Khoản 1 Điều 321, Điều 36, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt Mai Xuân Q, Nguyễn Văn Th từ 09-12 tháng cải tạo không giam giữ ;

Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu sung quỹ nhà nước 33.100.000 đồng, tịch thu tiêu hủy 04 bộ bài chắn ( 02 bộ đỏ, 02 bộ trắng), 02 đĩa sứ, 02 khay nhựa (01 khay màu hồng, 01 khay màu trắng). Trả lại cho Nguyễn Văn M số tiền 800.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung nêu trên.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 17/01/2021, Vương Văn T đã rủ rê, cung cấp công cụ, dùng địa điểm tại nhà mình để tổ chức hai bàn chơi đánh bạc dưới hình thức đánh chắn ăn tiền nhằm thu hồ phế số tiền 300.000 đồng/bàn chắn. Vương Văn T đã phân công Đặng văn T2, Nguyễn Văn M chia bài cho hai bàn chắn và hứa trả cho người chia bài số tiền 100.000 đồng/người.

Bàn chắn thứ nhất có Nguyễn Văn Th, Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Mai Xuân Q tham gia chơi, Trọng chia bài, số tiền dùng vào việc đánh bạc là 22.450.000 đồng. Bàn chắn thứ hai có Vương Thế M, Phạm Văn N, Nguyễn Văn Đ và Trần Văn T3 tham gia chơi, Min chia bài, số tiền dùng vào việc đánh bạc là 10.650.000 đồng. Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc của hai bàn chắn là 33.100.000 đồng.

Đám bạc chơi đến khoảng 22 giờ 50 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Thường Tín bắt quả tang, bắt giữ Vương Văn T, Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Đặng văn T2, Vương Thế M, Phạm Văn N, Nguyễn Văn Đ, Trần Văn T3 và Nguyễn Văn M. Nguyễn Văn Th và Mai Xuân Q chạy thoát. Đến ngày 26/01/2021, Tình và Q đến công an huyện Thường Tín đầu thú.

Hành vi của Vương Văn T, Nguyễn Văn M và Đặng văn T2 đã phạm vào tội: “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Vương Thế M, Phạm Văn N, Nguyễn Văn Đ, Trần Văn T3, Mai Xuân Q, Nguyễn Văn Th đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Điều Bộ luật hình sự [2] Đánh giá về tính chất, vai trò, mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Đối với các bị cáo phạm tội Tổ chức đánh bạc thì Vương Văn T là người giữ vai trò chính. Min, Trọng thực hiện việc chia bài theo sự phân công của Tiến, mức độ đồng phạm thấp hơn so với Tiến và có thể được coi là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, mục đích thu lợi không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được áp dụng theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo, áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với Min, Trọng. Từ tích chất, mức độ của hành vi phạm tội có thể cho các bị cáo được hưởng án treo là phù hợp.

Đối với các bị cáo phạm tội Đánh bạc:

Nguyễn Văn Th, Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Mai Xuân Q tham gia đánh bạc với số tiền dùng vào việc đánh bạc là 22.450.000 đồng. L có 9.100.000 đồng, Thường có 11.850.000 đồng Tình có 500.000 đồng; Q có 1.000.000 đồng Vương Thế M, Phạm Văn N, Nguyễn Văn Đ và Trần Văn T3 tham gia đánh bạc với số tiền dùng vào việc đánh bạc là 10.650.000 đồng. Nam có 3.100.000 đồng, Miền có 4.500.000 đồng, Tiến có 1.000.000 đồng, Đông có 2.050.000 đồng, dùng để đánh bạc.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Số tiền đánh bạc đối với từng chiếu bạc và số tiền của mỗi bị cáo đưa vào việc đánh bạc là căn cứ để đánh giá mức độ phạm tội của từng bị cáo.

Các bị cáo Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Vương Thế M, Nguyễn Văn Đ, đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là những tình tiết theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo và cho các bị cáo được hưởng án treo là phù hợp.

Đối với các bị cáo Phạm Văn N, Trần Văn T3, Nguyễn Văn Th, Mai Xuân Q đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là những tình tiết theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các bị cáo Tình, Q đã ra đầu thú do đó được coi là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Vì vậy có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo Nam, Tiến, Tình, Q.

Đối với các bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đều không có thu nhập ổn định nên không áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập.

[3] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ 04 bộ bài chắn (02 bộ màu đỏ, 02 bộ màu trắng), 02 đĩa nhựa (01 chiếc màu trắng đục, 01 chiếc ,màu hồng); 02 khay nhựa là những vật đã được dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 800.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn M không phải là tiền đánh bạc nên trả lại bị cáo. Số tiền còn lại đã thu giữ là tiền dùng vào việc đánh bạc cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[4] Đối với ông Vương Minh Đức là chủ nhà nhưng không biết việc Vương Văn T dùng để tổ chức đánh bạc, Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, ra các quyết định tố tụng hợp pháp theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1.Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự (đã sửa đổi bổ sung 2017) đối với bị cáo Vương Văn T, Nguyễn Văn M và Đặng Văn T . Áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Văn M, Đặng Văn T Tuyên bố các bị cáo Vương Văn T, Nguyễn Văn M và Đặng Văn Tr phạm tội Tổ chức đánh bạc.

Xử phạt bị cáo Vương Văn T 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Vương Văn T, Nguyễn Văn M và Đặng Văn Tr cho Ủy ban nhân dân xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điều 65 của Bộ luật hình sự (đã sửa đổi bổ sung 2017) đối với các bị cáo Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Vương Thế M, Nguyễn Văn Đ Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Th, Đào Văn L, Vương Thế Mi, Nguyễn Văn Đ phạm tội Đánh bạc.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Đào Văn L 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Vương Thế M 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Nguyễn Văn T, Đào Văn L, Vương Thế M, Nguyễn Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự (đã sửa đổi bổ sung 2017) đối với các bị cáo Phạm Văn N, Trần Văn T3, Mai Xuân Q, Nguyễn Văn Th. Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với Mai Xuân Q, Nguyễn Văn Th.

Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn N, Trần Văn T3, Mai Xuân Q, Nguyễn Văn Th phạm tội Đánh bạc.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 12 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian đã bị tạm giữ (từ ngày 17/01/2021 đến ngày 23/01/2021) quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ, bị cáo còn phải chấp hành 11 tháng 12 ngày cải tạo không giam giữ.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 12 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian đã bị tạm giữ (từ ngày 17/01/2021 đến ngày 23/01/2021) quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ, bị cáo còn phải chấp hành 11 tháng 12 ngày cải tạo không giam giữ.

Xử phạt bị cáo Mai Xuân Q 12 tháng cải tạo không giam giữ. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 tháng cải tạo không giam giữ.

Giao các bị cáo Phạm Văn N , Trần Văn T , Mai Xuân Q , Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được bản án và quyết định thi hành án.

4. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

5. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại Nguyễn Văn M 800.000 đồng. Tịch thu số tiền 33.100.000 đồng đã thu giữ trong vụ án để sung công quỹ Nhà nước. Số tiền này hiện trong tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thường Tín tại Kho bạc Nhà nước huyện Thường Tín theo Ủy nhiệm chi L ngày 29/4/2021.

Tịch thu tiêu hủy 04 bộ bài chắn (02 bộ màu đỏ, 02 bộ màu trắng), 02 đĩa nhựa (01 chiếc màu trắng đục, 01 chiếc ,màu hồng); 02 khay nhựa (Các vật chứng, tài sản trên hiện ở tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thường Tín, tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/4/2021) 6. Căn cứ Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lí và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

7. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình, trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 51/2021/HS-ST

Số hiệu:51/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thường Tín - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về