Bản án về tội đánh bạc số 77/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 77/2022/HS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố R G, tỉnh Kiên Giang tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 178/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Tấn A (tên gọi khác M), sinh năm 1971; Nơi sinh: H T - Thừa Thiên Huế; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Số 718/L, đường N T T, phường A H, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Bán vé số; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tấn H (đã chết) và bà Võ Thị H (đã chết); Có vợ: Nguyễn Thị Bảo Tr; Con: 04 người, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, được tại ngoại cho đến nay. (Có mặt).

2. Nguyễn Thị Bảo Tr, sinh năm 1985; Nơi sinh: T B – An Giang; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Số 718/L, đường N T T, phường A H, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Bán vé số; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C và bà Huỳnh Thị H; Có chồng: Nguyễn Tấn A; Con: 04 người, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, được tại ngoại cho đến nay. (Có mặt).

* Người chứng kiến:

+ Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1979; Địa chỉ: Số 1007/17 L Q K, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).

+ Lê Tuyết M, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số 309 C V L, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 24/5/2021, tại trước nhà 380, đường N T T, phường V L, thành phố R G, Công an phường V L bắt quả tang Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr đang cộng phơi đề bán được trong ngày của các đài Cà Mau, Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh với tổng số tiền là 10.517.000 đồng. Thu giữ 01 phơi đề, tiền Việt Nam là 7.125.000 đồng, 02 điện thoại di động đã qua sử dụng Qua điều tra xác định, Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr có mối quan hệ là vợ chồng. Vào khoảng giữa năm 2020, Tấn A và Tr đến trước nhà số 380 đường N T T, phường V L, đặt tủ bán số kiến thiết. Đến khoảng tháng 4 năm 2021, Tấn A và Tr bàn bạc với nhau bắt đầu bán số đề để có thêm thu nhập. Hàng ngày, Tấn A sẽ ngồi tại tủ vé số để bán số kiến thiết và số đề cho người dân xung quanh và những người đến mua số kiến thiết, còn Tr ở nhà bán số đề qua điện thoại. Khi cần mua số đề thì người mua nhắn tin hoặc gọi trực tiếp vào số điện thoại di động 0838130449 của Tr để mua số. Lúc này, Tr lưu tin nhắn hoặc ghi âm cuộc gọi của người mua số lại. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Tr đến tủ bán số cùng với Tấn A cộng phơi đề. Sau khi có kết quả xổ số hoặc qua hôm sau, những người trúng số sẽ đến tủ bán số kiến thiết của Tấn A và Tr nhận tiền. Tấn A và Tr bán số đề với hình thức số đầu, số đuôi, bao lô 2 con, bao lô 03 con, số đá và xỉu chủ của các đài miền Nam và miền Bắc. Đối với số đầu, đuôi và bao lô 02 con thì tỷ lệ trúng là 1 trúng 80; đối với bao lô 03 con, số đá, xỉu chủ thì tỷ lệ trúng là 1 trúng 600. Con số Tấn A và Tr bán thấp nhất là 500 đồng và cao nhất là 70.000 đồng, số tiền bán số đề mỗi ngày từ 3.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng. Ngày 24/5/2021, Tấn A và Tr bán số cho Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1979, trú tại 1007/17 đường L Q K, phường V L, thành phố R G cặp số 09, 90 và 88, 09 loại số đá của hai đài Cà Mau, Đồng Tháp, mỗi cặp với số tiền là 500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số, Th trúng cặp số 09, 90 với số tiền 300.000 đồng nhưng Th chưa nhận tiền trúng số của Tấn A và Tr. Ngoài ra, Tấn A và Tr còn bán các số con số trúng khác cho một số người không rõ nhân thân lai lịch, cụ thể như sau: loại lô hai con số 30, 65, 47, 57 của ba đài Cà Mau, Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh (trong đó số 30 là 3.000 đồng trúng 240.000 đồng; số 65 là 5.000 đồng trúng 400.000 đồng; số 47 là 10.000 đồng trúng 800.000 đồng; số 57 là 6.000 đồng trúng 480.000 đồng). Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 24/5/2021, khi đang cộng phơi đề và tính tiền thắng thua thì Tấn A và Tr bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ một phơi đề bán được trong ngày của các đài Cà Mau, Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh với tổng số tiền là 10.517.000 đồng (thu được 7.125.000 đồng từ người mua số). Từ ngày tháng 4 năm 2021 đến khi bị bắt quả tang, Tấn A và Tr thu lợi được khoảng 5.000.000 đồng từ việc bán số đề. Ngày 11/6/2021, Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G khởi tố và cấm đi khỏi nơi cư trú.

Trong quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự khai ra các lần phạm tội trước đó.

* Vật chứng thu được:

+ 01 (một) phơi đề của các đài Cà Mau, Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh với tổng số tiền là 10.517.000 đồng. (kèm theo hồ sơ vụ án);

+ Tiền Việt Nam 7.125.000 đồng (bảy triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng);

+ 01 (một) viết màu trắng xanh, mực xanh đã qua sử dụng;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A71 màu đen, số Imei:

3530811440963 đã qua sử dụng (thu giữ của Nguyễn Tấn A);

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno4 màu đen, số Imei:

860577047497736 đã qua sử dụng (thu giữ của Nguyễn Thị Bảo Tr).

Tại bản Cáo trạng số: 197/CT-VKSRG ngày 01/9/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố các bị cáo Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr về tội: “Đánh Bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn A mức án 02 năm cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bảo Tr mức án 02 năm cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định.

* Về vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đề nghị tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: Tiền Việt Nam 7.125.000 đồng (bảy triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 11/8/2021; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno4 màu đen, số Imei: 860577047497736 đã qua sử dụng; 01 (một) viết màu trắng xanh, mực xanh đã qua sử dụng. Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 139, ngày 06 tháng 8 năm 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G.

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho chủ sở hữu là Nguyễn Tấn A 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A71 màu đen, số Imei: 3530811440963 đã qua sử dụng, là tài sản không liên quan đến vụ án.

- Về biện pháp tư pháp: Đề nghị buộc hai bị cáo giao nộp 5.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính từ việc bán số đề để sung vào ngân sách nhà nước.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bạc như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G đã truy tố. Các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và không có ý kiến gì khác.

Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo Tấn A và Tr trình bày: Bị cáo đã nhận biết được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, xin được hưởng mức án cải tạo không giam giữ để lao động nuôi 04 đứa con ăn học.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố R G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai nhận tội tại Cơ quan điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang; tài liệu, đồ vật thu giữ trực tiếp; lời khai nhận của những người chứng kiến; nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được làm rõ tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để kết luận: Do muốn có tiền để tiêu xài nên từ khoảng tháng 4/2021 Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr đã thực hiện hành vi bán số đề ngay tại trước nhà số 380, đường N T T, phường V L, thành phố R G cho những người ở những khu vực xung quanh đến mua số đề. Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr bán số đề ăn thua trực tiếp với người chơi đề chứ không giao phơi đề lại cho người khác. Vào lúc khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 24/5/2021, tại trước nhà số 380, đường N T T, phường V L, thành phố R G, Công an phường V L bắt quả tang Tấn A và Bảo Tr đang cộng phơi đề bán được trong ngày của các đài Cà Mau, Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh với tổng số tiền là 10.517.000 đồng (đã thu được từ những người mua số đề với số tiền là 7.125.000 đồng). Sau khi có kết quả xổ số thì tổng số tiền người mua trúng là 2.220.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc ngày 24/5/2021 được xác định là 12.737.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự như kết luận của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức rõ hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, được ăn thua bằng tiền mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài và thu lợi bất chính một cách nhanh chóng mà các bị cáo đã bất chấp những quy định của pháp luật và hậu quả xảy ra để thực hiện bằng được hành vi phạm tội; hành vi đánh bạc của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội, gây mất an ninh tại địa phương và là một trong những nguyên nhân gây phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, làm tăng thêm sự phức tạp về tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Cáo trạng số 197/CT-VKSRG ngày 01/9/2021 và tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G đề nghị xác định 02 bị cáo có tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xét thấy, căn cứ để áp dụng tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” là người phạm tội đã nhiều hơn 02 lần thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật hình sự đối với cùng một tội, mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa chỉ xác định được ngày 24/5/2021 bị cáo Tấn A và Bảo Tr có hành vi bán số đề cho Nguyễn Ngọc Th với số tiền là 1.000 đồng (Sau khi có kết quả xổ số, Th trúng được số tiền 300.000 đồng), tổng số tiền bán được trong ngày được xác định là 12.737.000 đồng và thời gian từ tháng 04/2020 đến khi bị bắt quả tang Tấn A và Tr thu lợi được khoảng 5.000.000 đồng từ việc bán số đề, mà không xác định được ngoài bán cho Nguyễn Ngọc Th thì đã bán cụ thể cho những ai khác, vào thời gian nào, số tiền là bao nhiêu và những ngày trước đó mỗi ngày bán được số tiền là bao nhiêu, có đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc không. Do đó, đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự của Viện kiểm sát là chưa đủ căn cứ, cơ sở để áp dụng. Vì vậy, trong vụ án này xác định bị cáo Tấn A và Tr không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

 - Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ được áp dụng theo quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, các bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính nên bị cáo có tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Về nhân thân: các bị cáo đều là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[5] Sau khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của xã hội cho hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Xét thấy, bị cáo Tấn A và Tr có 02 tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 51 và có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; các bị cáo phạm tội lần đầu ít nghiêm trọng. Do đó, không cần thiết phải cách ly 02 bị cáo khỏi đời sống xã hội mà giao về cho gia đình và chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ răn đe, tạo điều kiện cho các bị cáo được cải tạo, sửa đổi thành một công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát thành phố RG về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ thể hiện các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về các vấn đề khác:

* Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

+ Tiền Việt Nam 7.125.000 đồng (bảy triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 11/8/2021; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno4 màu đen, số Imei: 860577047497736 đã qua sử dụng; 01 (một) viết màu trắng xanh, mực xanh đã qua sử dụng. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 136/QĐ-VKS, ngày 01/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G.

+ Tiền Việt Nam 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) mà bị cáo Nguyễn Tấn A đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0001884 ngày 28/02/2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố R G là tiền do các bị cáo Tấn A và Bảo Tr đánh bạc mà có.

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho chủ sở hữu là Nguyễn Tấn A 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A71 màu đen, số Imei: 3530811440963 đã qua sử dụng, là tài sản không liên quan đến vụ án. HĐXX miễn xét.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr phạm tội “Đánh bạc”.

+ Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn A 02 (hai) năm cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập cá nhân do bị cáo không có nguồn thu nhập ổn định.

Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy Ban nhân dân phường A H, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Tấn A cho Ủy Ban nhân dân phường A H, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

+ Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bảo Tr 02 (hai) năm cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập cá nhân do bị cáo không có nguồn thu nhập ổn định.

Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy Ban nhân dân phường A H, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Thị Bảo Tr cho Ủy Ban nhân dân phường A H, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

3. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

+ Tiền Việt Nam 7.125.000 đồng (bảy triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 11/8/2021; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno4 màu đen, số Imei: 860577047497736 đã qua sử dụng; 01 (một) viết màu trắng xanh, mực xanh đã qua sử dụng. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 136/QĐ-VKS, ngày 01/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G.

+ Tiền Việt Nam 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) mà bị cáo Nguyễn Tấn A đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0001884 ngày 28/02/2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố R G là tiền do các bị cáo Tấn A và Bảo Tr đánh bạc mà có.

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 6, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Các bị cáo Nguyễn Tấn A và Nguyễn Thị Bảo Tr, mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 77/2022/HS-ST

Số hiệu:77/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về