TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 77/2022/HS-PT NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2022/TLPT-HS ngày 24 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/QĐXXPT-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Thị S, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2022/HS-ST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Giao Thuỷ.
- Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Phạm Thị S; sinh năm 1979; nơi sinh: Xã H, huyện G, tỉnh Đ; nơi cư trú: Tổ dân phố Sơn Hòa (4B cũ), thị trấn N, huyện G, tỉnh Đ; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Thế T (đã chết) và bà Phùng Thị H; có chồng là Phạm Thanh T và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 14-9-2021 đến ngày 22-10-2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
Vụ án còn có 02 bị cáo khác không kháng cáo, không triệu tập đến phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Thị S làm đại lý của Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết Đ, đăng ký điểm bán trước Trung tâm văn hóa huyện G. Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 10-7-2021, khi S đang ở điểm bán xổ số thì Trần Văn T đến đặt vấn đề mua số đề 79, 979 với tổng số tiền là 200.000 đồng. S nhận tiền rồi lấy 01 tờ phơi đề viết các con số T mua, ký xác nhận tên và đưa lại cho T. Khi T vừa nhận tờ phơi thì bị lực lượng Công an thị trấn N phát hiện bắt giữ. Thu giữ của Trần Văn T 01 tờ phơi đề, thu của Phạm Thị S 200.000 đồng là tiền vừa bán trái phép số đề cho T. Ngoài ra còn thu giữ của S 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO F9 màu tím; 02 bảng tổng hợp số lô đề vào ngày 09-7-2021; 01 bảng đề ngày 10-7-2021; một tập phơi đề gồm 20 miếng giấy trắng; 01 bút mực S dùng để ghi số lô, số đề và số tiền 6.800.000 đồng.
Quá trình điều tra, CQĐT xác định: Ngoài việc bán xổ số, lô tô theo quy định, S còn bán số lô đề trái phép cho người chơi dưới 02 hình thức là bán trực tiếp cho người chơi và qua tin nhắn (gồm tin nhắn SMS với số thuê bao 0976.922.*** và tin nhắn Zalo bằng tài khoản “S P” đăng ký bằng số điện thoại trên). Sau khi bán số lô đề cho khách, S đều ghi lại các con số vào bảng tổng hợp hàng ngày để làm căn cứ đối chiếu khi mở thưởng. S đã căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày để xác định việc thắng thua. Các loại số đề được trả gấp 70 lần nếu trúng đề 02 số, gấp 400 lần nếu trúng đề 03 số và gấp 1500 lần nếu trúng đề 04 số. Về số lô thường (02 số) thì giá mua 01 điểm là 21.800 đồng, nếu trúng thưởng sẽ được trả 80.000 đồng/1 điểm (đối chiếu với kết quả xổ số miền Bắc).
Trong khoảng thời gian từ tháng 5-2021 đến tháng 7-2021, Phạm Thị S đã nhiều lần bán số lô đề trái phép cho nhiều người chơi, cụ thể:
Trong các ngày 11, 13 và ngày 22-5-2021 Lê Văn S1 sử dụng điện thoại của mình nhắn tin mua số lô, đề của Phạm Thị S với số tiền lần lượt là 50.000 đồng;
60.000 đồng; 20.000 đồng (Số không trúng ngày nào).
Ngày 13 và ngày 14-6-2021, Trần Văn L sử dụng điện thoại di động của mình nhắn tin mua số lô, đề của S với số tiền lần lượt là 22.300.000 đồng và 44.100.000 đồng (L không trúng thưởng).
Ngày 15-6-2021 Trần Văn L tiếp tục nhắn tin cho S để mua số lô, đề với số tiền 21.910.000 đồng. Cùng ngày, Phạm Thị L1 nhắn tin mua số lô, đề của S với số tiền 250.000 đồng. Khi có kết quả XSMB trong ngày thì L trúng thưởng số lô 85 với 500 điểm được 40.000.000 đồng, L1 không trúng thưởng.
Ngày 17-6-2021, Phạm Thị L1 tiếp tục nhắn tin mua số lô đề của S với số tiền 100.000 đồng (L1 không trúng thưởng).
Ngày 18-6-2021, Trần Văn L tiếp tục nhắn tin mua số lô, đề của S với số tiền 10.900.000 đồng (L không trúng thưởng).
Ngày 26-6-2021, Vũ Thị H sử dụng điện thoại của mình nhắn tin cho S để mua số lô, đề với số tiền 327.000 đồng. H trúng thưởng số lô 58 với 15 điểm được 1.200.000 đồng.
Ngày 28-6-2021, Nguyễn Thị M sử dụng tài khoản Zalo của M nhắn tin mua số đề của S với số tiền 200.000 đồng (M không trúng thưởng). Ngày 29-6-2021, M nhắn tin cho S để mua số lô, đề với số tiền là 400.000 đồng (M không trúng thưởng). Ngày 30-6-2021, M nhắn tin cho S để mua số lô, đề với số tiền là 1.890.000 đồng. M trúng thưởng số đề 08 với 50.000 đồng được 3.500.000 đồng.
Ngày 01-7-2021, Nguyễn Thị M nhắn tin cho S để mua số lô, đề với số tiền 498.000 đồng; Vũ Thị H nhắn tin cho S mua số lô, đề với số tiền 327.000 đồng; Phạm Thị L1 nhắn tin mua số lô, đề của S với số tiền 200.000 đồng (M, H, L1 đều không trúng thưởng).
Ngày 02-7-2021, Nguyễn Thị M nhắn tin cho S mua số lô, đề với số tiền là 400.000 đồng; Vũ Thị H nhắn tin cho S mua số lô, đề với số tiền 436.000 đồng (M và H không trúng thưởng).
Ngày 03-7-2021, Phạm Thị S bán số lô, đề cho Nguyễn Thị M qua tin nhắn tài khoản Zalo với số tiền là 800.000 đồng (M không trúng thưởng).
Ngày 04-7-2021, Phạm Thị S bán số lô, đề cho Nguyễn Thị M qua tin nhắn tài khoản Zalo với số tiền là 1.236.000 đồng (M trúng số lô 84 với 20 điểm được 1.600.000 đồng.
Ngày 05-7-2021, Phạm Thị S bán số lô, đề cho Nguyễn Thị M qua tin nhắn tài khoản với số tiền là 758.000 đồng (M không trúng thưởng).
Ngày 06-7-2021, Đỗ Văn T1 và Nguyễn Văn T2 nhắn tin mua số lô, đề của S. T1 mua số lô, đề với số tiền 620.000 đồng; T2 mua số lô, đề với số tiền là 100.000 đồng. Ngoài ra Nguyễn Thị M cũng nhắn tin cho S mua số lô, đề với số tiền là 500.000 đồng (T1, T2 và M không trúng thưởng).
Ngày 07-7-2021, Phạm Thị S bán số lô, đề cho Nguyễn Thị M với số tiền là 1.000.000 đồng; Bùi Văn K nhắn tin mua số lô, đề với số tiền 510.000 đồng; Trần Văn L mua số lô, đề số tiền 2.180.000 đồng; Đỗ Văn T1 mua số lô, đề số tiền 620.000 đồng (M, K, L, T1 không ai trúng thưởng).
Ngày 08-7-2021, Cơ quan điều tra đã thu giữ được hình ảnh bảng tổng hợp đề ngày 08- 7- 2021 S đã gửi từ tài khoản Zalo “S P” đến tài khoản Zalo “Đ Đ” (S khai tài khoản Zalo “Đ Đ” trên là của Nguyễn Thị H1), Phạm Thị S khai là bảng tổng các số lô, đề đã bán cho nhiều người chơi với tổng số tiền đánh bạc trong bảng tổng hợp đã thu giữ là 37.846.000 đồng, bao gồm tiền bán số đề là 15.695.000 đồng, tiền lô xiên 460.000 đồng, tiền bán số lô là 21.691.000 đồng; ngoài số tiền trong bảng trên S còn bán số lô đề cho người chơi nhưng không vào bảng tổng hợp với số tiền là 2.146.000 đồng. Trong đó đã xác định được những người chơi đã mua số lô đề của S trong ngày 08-7-2021 như sau: Đối tượng Phạm Thị S khai là Trần Công N sử dụng số điện thoại 0989.560.*** nhắn tin mua số lô đề của S với tổng số tiền là 7.950.000 đồng, trong đó đã vào bảng tổng hợp số tiền 7.341.000 đồng, không ghi vào bảng tổng hợp số tiền 609.000 đồng; Nguyễn Văn H2 sử dụng số điện thoại 0915.013.*** nhắn tin đến số điện thoại của S mua số lô đề với tổng số tiền là 2.280.000 đồng, trong đó số tiền đã vào bảng tổng hợp là 2.062.000 đồng, số tiền không vào bảng là 218.000 đồng; Bùi Văn K sử dụng số điện thoại 0988.309.*** nhắn tin đến số điện thoại của S mua số lô đề với số tiền là 1.290.000 đồng, trong đó đã vào bảng số tiền 1.071.000 đồng, không vào bảng số tiền 219.000 đồng; Đỗ Văn T1 nhắn tin đến tài khoản Zalo “S P” của Sim mua số lô đề với số tiền 730.000 đồng, trong đó đã vào bảng tổng hợp số tiền 130.000 đồng; không vào bảng số tiền 600.000 đồng; Nguyễn Thị M nhắn tin mua số lô đề với số tiền 1.000.000 đồng, trong đó đã vào bảng số tiền 500.000 đồng, không vào bảng số tiền 500.000 đồng. Những người chơi còn lại trong bảng S khai không nhớ rõ tên tuổi địa chỉ. Tổng số tiền mà người chơi đã thắng là 23.200.000 đồng bao gồm số tiền đề “46” mà người chơi đã thắng là 120.000 đồng tương ứng với số tiền 8.400.000 đồng; tổng số tiền lô mà người chơi đã thắng là 185 điểm x 80.000 đồng = 14.800.000 đồng. Trong số người chơi đã thắng có Trần Công N đã thắng (các số trúng thưởng đều đã vào bảng) với số tiền là 11.000.000 đồng.
Ngày 09-7-2021: Cơ quan điều tra đã thu giữ được 02 bảng tổng hợp đề ngày “09-7” và “Trà 09-7”, Phạm Thị S khai: Bảng “09-7” là bảng tổng hợp các số lô đề mà S đã bán cho nhiều người chơi khác nhau trong ngày, còn bảng “Trà 09-7” là bảng S để chuyển cho Nguyễn Thị H1 qua tài khoản Zalo “Đ Đ” để hưởng hoa hồng. Tuy nhiên các số lô đề trong hai bảng này là không giống nhau, có một số số lô đề S chuyển hết số tiền đánh từ bảng “09-7” sang bảng “Trà 09-7”; có số S không chuyển bảng mà giữ lại toàn bộ, có số S chỉ chuyển một phần, phần còn lại S giữ lại để ăn thua trực tiếp với người chơi; có một số số lô đề sau khi người chơi mua, S không vào bảng “09-7” mà ghi trực tiếp vào bảng “Trà 09-7” để chuyển cho H1. Tổng số tiền mà S đã bán số lô đề trong 02 bảng tổng hợp đã thu giữ là 49.208.000 đồng, bao gồm tiền bán số đề là 21.383.000 đồng, tiền lô xiên 1.120.000 đồng, tiền bán số lô là 26.705.000 đồng. Ngoài ra S còn bán số lô đề cho một số người nhưng không vào 02 bảng tổng hợp nêu trên với số tiền là 1.756.000 đồng. Trong số người mua số lô, đề của S ngày 09-7-2021 gồm có: Đối tượng Phạm Thị S khai là Trần Công N sử dụng số điện thoại 0989.560.*** nhắn tin mua số lô đề của S với tổng số tiền là 7.260.000 đồng, trong đó đã vào bảng tổng hợp số tiền 6.925.000 đồng, không ghi vào bảng tổng hợp số tiền 335.000 đồng; Nguyễn Văn H2 sử dụng số điện thoại 0915.013.*** nhắn tin đến số điện thoại của S mua số lô đề với tổng số tiền là 1.090.000 đồng (đều đã vào bảng); Vũ Văn T2 sử dụng số điện thoại 0824.568.*** nhắn tin đến số điện thoại của S mua số lô đề với số tiền là 2.180.000 đồng (đều đã vào bảng), Đỗ Văn T1 sử dụng tài khoản Zalo “Đ T” nhắn tin đến tài khoản Zalo “S P” của S mua số lô đề với số tiền 670.000 đồng, trong đó đã vào bảng tổng hợp số tiền 290.000 đồng; không vào bảng số tiền 380.000 đồng; Nguyễn Thị M sử dụng tài khoản Zalo “N H H” nhắn tin đến Zalo của S mua số lô đề với số tiền 1.000.000 đồng (đều đã vào bảng), Cao Xuân H sử dụng tài khoản Zalo “C X H” nhắn tin đến Zalo của S mua số lô đề với số tiền là 100.000 đồng, trong đó đã vào bảng 40.000 đồng, không vào bảng số tiền 60.000 đồng; số lô 93 với 45 điểm = 981.000 đồng S đã chuyển sau cho tài khoản “Đ Đ”. Những người chơi còn lại trong bảng S khai không nhớ rõ tên tuổi địa chỉ. Theo kết quả XSMB mở thưởng trong ngày, tổng số tiền mà người chơi đã thắng là 17.000.000 đồng, bao gồm số tiền đề mà người chơi đã thắng là 1.400.000 đồng; số tiền lô mà người chơi đã thắng là 15.600.000 đồng. Trong số người chơi đã thắng có Trần Công N đã thắng (các số trúng thưởng đều đã vào bảng) với số tiền là 8.000.000 đồng.
Ngày 10-7-2021 Cơ quan điều tra đã thu giữ được bảng tổng hợp đề ngày 10-7- 2021 Phạm Thị S khai là bảng tổng các số lô đề đã bán cho nhiều người chơi khác nhau, tổng số tiền đánh bạc trong bảng tổng hợp 10-7-2021 đã thu giữ là 5.629.000 đồng, bao gồm tiền bán số đề là 2.259.000 đồng, số tiền lô xiên 100.000 đồng, số tiền bán số lô là 3.270.000 đồng. Trong đó đã xác định được những người chơi đã mua số lô đề của S như sau: Văn T đến mua trực tiếp sau đó bị bắt quả tang với số tiền 200.000 đồng; Cao Xuân H sử dụng tài khoản Zalo “C X H” nhắn tin đến Zalo của S mua số lô đề với số tiền là 100.000 đồng. Những người chơi còn lại trong bảng S khai không nhớ rõ tên tuổi địa chỉ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2022/HS-ST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Giao Thuỷ đã quyết định:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, Tuyên bố bị cáo: Phạm Thị S phạm tội “Đánh bạc”;
Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị S 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 14-9-2021 đến ngày 22-10-2021.
Ngoài ra Bản án còn tuyên về hình phạt đối với các bị cáo khác, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 12-7-2022 bị cáo Phạm Thị S có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị xét xử là đúng người, đúng tội, nhưng hình phạt 03 năm tù đối với bị cáo là quá nặng, hoàn cảnh gia đình bị cáo kinh tế khó khăn nên bị cáo đã phạm tội, bị cáo là lao động chính đang phải nuôi 04 con ăn học, chồng bị cáo ốm đau triền miên không làm được gì, mong Toà xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc cho gia đình, bị cáo cam kết không bao giờ tái phạm.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Bị cáo rất ân hận đối với việc làm của mình, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, chồng bị cáo bị bệnh u tuỷ đã phải phẫu thuật năm 2016 tại Bệnh viện 108 thường xuyên phải đi tái khám và điều trị, không lao động được, 04 con của bị cáo đang tuổi ăn học, xin Toà xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sau khi tập trung cải tạo sớm được trở về để chăm sóc chồng ốm đau và nuôi dạy các con.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về việc làm của mình và tích cực giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm phát hiện điều tra tội phạm, tại cấp phúc thẩm có thêm tình tiết mới thể hiện chồng bị cáo sức khoẻ yếu, không thể lao động được, bị cáo là lao động chính phải nuôi 04 con đang tuổi ăn học. Như vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS, nên kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo là có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án cấp sơ thẩm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có căn cứ xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Từ việc làm đại lý của Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết nhưng Phạm Thị S đã có hành vi bán lô, đề trái phép thông qua bán trực tiếp và bán thông qua tin nhắn SMS và tin nhắn Zalo cho nhiều người, trong đó đã có đủ căn cứ xác định bị cáo đã bán cho bị cáo Trần Văn L vào các ngày 13, 14, 15, 18 tháng 6 năm 2021, ngày ít nhất là 10.900.000đồng, ngày nhiều nhất là 44.100.000đồng, trong đó ngày 15-6-2021 bị L mua số tiền 21.910.000 đồng, trúng số lô 85 được 40.000.000 đồng. Đồng thời, ngày 30-6-2021 bị cáo đã bán lô, đề cho bị cáo Nguyễn Thị M số tiền là 1.890.000 đồng, bị cáo M trúng thưởng số đề 08, được 3.500.000 đồng. Do đó, cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Thị S về tội “Đánh bạc”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 321 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo về mức hình phạt thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm phát hiện điều tra tội phạm được Đồn Biên phòng Quất Lâm có Công văn số 05/CV-ĐQL ngày 30-6-2022 xác nhận và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đồng thời, tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình chứng cứ thể hiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo rất khó khăn, chồng bị cáo bị bệnh hiểm nghèo không lao động được, 04 con của bị cáo đang tuổi ăn học, bị cáo là lao động chính. Như vậy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, đủ điều kiện cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nên cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo và quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ tại phiên toà, tạo điều kiện cho bị cáo sau khi tập trung cải tạo sớm được trở về chăm lo cho gia đình, thể hiện bản chất nhân đạo, khoan hồng của pháp luật và tránh áp lực an sinh cho xã hội.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thị S, sửa bản án sơ thẩm;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS, Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị S phạm tội “Đánh bạc”;
Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị S 27 (Hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt, được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 14-9-2021 đến ngày 22-10-2021;
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
2. Án phí: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án thì người bị thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội đánh bạc số 77/2022/HS-PT
Số hiệu: | 77/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về