TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 68/2021/HS-PT NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 14-9-2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 63/2021/TLPT-HS ngày 29-7-2021 đối với bị cáo Thạch P do có kháng cáo của bị cáo Thạch P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị cáo có kháng cáo: Thạch P; Tên gọi khác: H; Sinh ngày: 01-01-1976; Nơi sinh: Huyện MX, tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: Ấp C1, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thạch B và bà Danh Thị L; Tiền án: Không; Có 01 tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 002912/QĐ-XPVPHC ngày 23-4-2020 của Công an Phường M, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, Thạch P bị xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền (đã nộp phạt vào ngày 28-4-2020); Bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 04-01-2021 cho đến nay. (có mặt)
- Những người dưới đây không liên quan đến kháng cáo Hội đồng xét xử Phúc thẩm không triệu tập gồm: Người làm chứng NLC1, NLC2, NLC3.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc khoảng 19 giờ ngày 02-11-2020, Thạch P đi bộ từ nhà đến trước hàng ba nhà của bà Trần Thị H, sinh năm 1958 (bà H đã bỏ địa phương đi làm ăn xa hơn 01 năm) thuộc ấp C1, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, để tham gia chơi đánh bạc ăn thua bằng tiền dưới hình thức lắc bông dụ. Thạch P mang theo 01 cái đĩa bằng sứ màu trắng, 01 cái thùng bằng nhựa màu trắng có quấn băng keo màu đen ở bên ngoài, 03 hột bông dụ bằng nhựa, 03 cái bình ắc quy và 01 cái bóng đèn để chơi lắc bông dụ cùng với NLC1, NLC2 và NLC3.
Hình thức chơi bông dụ như sau: Khi bắt đầu mỗi ván thì người làm cái trực tiếp sử dụng 01 hột bông dụ có 06 mặt được ký hiệu mỗi mặt theo thứ tự từ 01 chấm tròn đến 06 chấm tròn xoay trên một cái đĩa bằng sứ màu trắng rồi dùng một cái thùng bằng nhựa có quấn băng đen ở bên ngoài để đậy cái đĩa lại để cho những người trực tiếp đặt cược tiến hành đặt cược. Những người đặt cược dự đoán kết quả để đặt tiền vào một bảng đặt cược nhựa được chia là 06 ô có ký hiệu từ 01 chấm đến 06 chấm tròn tương ứng để ăn thua trực tiếp với nhà cái (những người đặt cược chỉ trực tiếp ăn thua với người cái). Sau khi người làm cái cái xoay hột bông dụ xong thì người đặt cược tiến hành đặt số tiền muốn cược tại các ô tương ứng trên bản đặt cược. Đồng thời, những người chơi khác có thể không trực tiếp sử dụng tiền của mình để đặt cược mà sử dụng tiền của những người đặt cược khác đã đặt cược trước đó để sửa sang các ô khác, trường hợp này thì người làm cái chỉ căn cứ vào vị trí đặt tiền dưới bản đặt cược xác định ăn thua, còn những người sanh sửa ở bên ngoài sẽ tự xác định thắng, thua riêng với người đã đặt cược trước đó. Sau khi người đặt cược đã đặt tiền cược trên bảng đặt cược xong thì người làm cái mở thùng nhựa để kiểm tra và phân biệt thắng, thua. Khi kiểm tra kết quả nếu mặt trên của hột bông dụ không trùng với vị trí mà người chơi đã đặt cược thì người làm cái sẽ ăn số tiền của người đặt cược đó; nếu kết quả mặt trên của hột bông dụ trùng với vị trí mà người đặt cược đã đặt thì người làm cái sẽ chung tiền theo tỷ lệ thắng, thua tiền cược tương ứng tại các vị trí như sau:
- Tỷ lệ cược thắng, thua tiền cược là 1: 6 đối với đặt cược tại vị trí ô số là 2 hoặc 5, nghĩa là nếu người đặt cược số tiền 10.000 đồng tại ô số 2 hoặc 5 mà kết quả thắng thì sẽ thắng thêm được 60.000 đồng, còn thua thì chỉ thua 10.000 đồng;
- Tỷ lệ cược thắng thua tiền cược là 1:4 đối với đặt cược tại vị trí ô số 1, 3, 4 hoặc 6, nghĩa là nếu người đặt cược số tiền 10.000 đồng tại ô số 1, 3, 4 hoặc 6 mà kết quả thắng thì sẽ thắng thêm được 40.000 đồng, còn thua thì chỉ thua 10.000 đồng;
- Tỷ lệ cược thắng thua tiền cược là 1: 3 đối với đặt cược ở giữa vị trí ô số 2 và số 5, nghĩa là nếu người đặt cược số tiền 10.000 đồng tại giữa ô số 2 và 5 nếu kết quả ra 1 trong 2 số đã đặt thì người đặt cược sẽ thắng thêm được 30.000 đồng còn thua thì chỉ thua 10.000 đồng;
- Tỷ lệ cược thắng thua tiền cược là 1:2 đối với đặt cược tại vị trí giữa ô số 1 và số 2; số 1 và số 5; số 2 và số 3; số 2 và số 4; số 2 và số 6; số 3 và số 5; 4 và số 5; số 5 và số 6, nghĩa là nếu người đặt cược số tiền 10.000 đồng các vị trí nói trên nếu kết quả ra 1 trong 2 số đã đặt thì người đặt cược sẽ thắng thêm được 20.000 đồng, còn thua thì chỉ thua 10.000 đồng.
Qua quá trình điều tra, Thạch P, NLC1, NLC2, NLC3 thừa nhận hành vi tham gia đánh bạc như sau:
- Đối với Thạch P, mang theo số tiền 600.000 đồng dùng đánh bạc, tham gia với vai trò là người làm cái. Trong lúc chơi, thì Thạch P không có quy định số tiền đặt cược thấp nhất ở một cửa là bao nhiêu nhưng quy định số tiền đặt cược ở một cửa là không quá 100.000 đồng. Trung bình tổng số tiền đặt cược trong mỗi ván dao động từ 50.000 đồng đến 400.000 đồng. Thạch P làm cái được khoảng 20 ván thì bị lực lượng Công an vào bắt quả tang. Từ lúc tham gia chơi đến lúc bị bắt thì Thạch P xác định đã thua hết 50.000 đồng. Khi bị bắt quả tang thì Thạch P bị tạm giữ tiền số tiền là 247.000 đồng dùng đánh bạc. Đồng thời, Thạch P thừa nhận số tiền 307.000 đồng được lực lượng Công an thu giữ tại vị trí xung quanh nơi đánh bạc là của Thạch P bỏ lại, cũng dùng vào mục đích đánh bạc.
- Đối với NLC1, mang theo số tiền 100.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc, tham gia với vai trò là người đặt cược. Kết quả từ lúc bắt đầu chơi đánh bạc đến lúc bị bắt quả tang thì NLC1 thua hết 10.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, Linh bị tạm giữ số tiền 90.000 đồng dùng đánh bạc và 01 xe mô tô biển kiểm soát 83P1- 837.30.
- Đối với NLC2, mang theo số tiền gần 2.700.000 đồng dùng vào việc đánh bạc, tham gia với trò người đặt cược, kết quả đã thua hơn 100.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, NLC2 còn đặt cược dưới chiếu bạc 100.000 đồng. Ngoài ra, thì khi kiểm tra trên người của NLC2 thì Công an huyện MX đã thu giữ được 2.484.000 đồng dùng mục đích đánh bạc và 01 xe mô tô biển kiểm soát 83X1-020.75.
- Đối với NLC3, mang theo trong người số tiền 2.500.000 đồng trong đó dùng vào mục đích đánh bạc là 1.000.000 đồng, còn 1.500.000 đồng thì NLC3 để riêng dùng để thuê nhà trọ. Khi vào tham gia thì NLC3 tham gia với trò người đặt cược, kết quả đã thua khoảng 700.000 đồng. Khi bị bắt quả tang thì NLC3 bị tạm giữ số tiền 1.804.000 đồng, trong đó dùng đánh bạc là 304.000 đồng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 60S1-0042.
Trong ngày 02-11-2020, Thạch P, NLC1, NLC2 và NLC3 cùng đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền dưới hình thức chơi bông dụ với tổng số tiền dùng đánh bạc là 3.942.000 đồng trong đó: Số tiền lực lượng Công an thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc là 510.000 đồng, thu xung quanh chiếu bạc là 307.000 đồng, thu trên người những người bị bắt quả tang dùng đánh bạc gồm Thạch P 247.000 đồng, NLC1 90.000 đồng, NLC2 2.484.000 đồng và NLC3 304.000 đồng.
* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 22-6-2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng quyết định:
- Tuyên bố: Bị cáo Thạch P phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38; khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Thạch P.
- Xử phạt: Bị cáo Thạch P (tên gọi khác: Hòa) 04 (Bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.
* Ngày 02-7-2021, bị cáo Thạch P kháng cáo xin giảm hình phạt là được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Thạch P giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt là được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo Thạch P từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo và phạm vi xét xử phúc thẩm: Xét Đơn kháng cáo của bị cáo Thạch P lập và nộp cho Tòa án nhân dân huyện M vào ngày 02-7-2021 là đúng quy định về người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình thức, nội dung kháng cáo theo quy định tại các điều 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét nội dung kháng cáo của bị cáo Thạch P, về việc xin giảm hình phạt là áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
[2] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo Thạch P như sau: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Thạch P khai nhận vào lúc khoảng 19 giờ ngày 02-11-2020, tại hàng ba nhà của bà Trần Thị H ở ấp C1, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, Thạch P cùng với NLC1, NLC2 và NLC3 có hành vi đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền dưới hình thức lắc bông dụ, trong đó Thạch P là người làm cái thì bị Công an huyện M bắt quả tang và cơ quan điều tra chứng minh được tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 3.942.000 đồng. Đồng thời, bị cáo Thạch P đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc theo Quyết định số 002912/QĐ-XPVPHC ngày 23-4- 2020 của Công an Phường M, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm kết luận bị cáo Thạch P phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Thạch P, về việc xin giảm hình phạt là được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ: Xét khi lượng hình, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định bị cáo Thạch P là người có nhân thân xấu (có 01 tiền sự); không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo; bị cáo là người dân tộc Khmer, nhận thức pháp luật còn hạn chế và bị cáo Thạch P đang bị bệnh bị tổn thương cơ thể do bệnh tật với tỷ lệ là 62%, theo quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử sơ thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt và xử phạt bị cáo Thạch P với mức án 04 tháng tù là phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được áp dụng. Đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mà đáng lẽ bị cáo hưởng nhưng cấp sơ thẩm chưa áp dụng. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Thạch P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.
[5] Các phần khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Thạch P (tên gọi khác: H), về việc xin giảm hình phạt là được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 22-6-2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Thạch P (tên gọi khác: H) 04 (Bốn) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện chấp hành án hoặc từ ngày bắt bị cáo để chấp hành án.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm:
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Xử buộc bị cáo Thạch P (tên gọi khác: H) chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).
4. Các phần Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 68/2021/HS-PT
Số hiệu: | 68/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về