Bản án về tội đánh bạc số 65/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH 

BẢN ÁN 65/2021/HS-ST NGÀY 14/07/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở TAND huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐ- HS ngày 23 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Lương Văn Đ, sinh năm 1980 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Phố T, Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn B (đã chết) và bà Đinh Thị R sinh năm 1948; Vợ là Bùi Thị Mịa sinh năm 1980; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân: Ngày 05/4/1997 Công an huyện N lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng. Ngày 21/8/2007 Công an huyện N ra quyết định số 74 xử lý vi phạm hành chính phạt tiền 1000.000 đồng về hành vi Đánh bạc.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/4/2021 đến ngày 15/4/2021 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

2. Nguyễn Trọng T, sinh năm 1982 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Phố T, Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H sinh năm 1947 và bà Lương Thị H sinh năm 1951; Có vợ là Vũ Thị Phượng sinh năm 1979; Bị cáo có 03 con: Con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/4/2021 đến ngày 15/4/2021, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

3. Nguyễn Văn S, sinh năm 1978 tạị huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn Trại Lạo, xã Đồng Phong, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hồng H (đã chết) và bà Nguyễn Thị N sinh năm 1951; có vợ là Nguyễn Thị H sinh năm 1981 và có 02 con lớn sinh năm 2003 con nhỏ sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/4/2021 đến ngày 15/4/2021 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

4. Bùi Văn M, sinh năm 1978 tại huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Mường; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn B sinh năm 1954 và bà Bùi Thị B sinh năm 1954; Vợ là Trịnh Thị H sinh năm 1971; Bị cáo có 03 con: con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/4/2021 đến ngày 15/4/2021 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

5. Bùi Văn Th, sinh năm 1969 tại huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Mường; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn N(đã chết) và bà Bùi Thị D (đã chết); Vợ là Bùi Thị T sinh năm 1972; Bị cáo có 02 con: con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/4/2021 đến ngày 15/4/2021 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

6. Nguyễn Thị H, sinh năm 1978 tại huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm Đại Đồng, xã Ngọc Lương, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Kiều Thị H (đã chết); Chồng là Nguyễn Văn T sinh năm 1971 (Đã ly hôn); Bị cáo có 02 con: con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/4/2021 đến ngày 15/4/2021 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 09/4/2021, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H và Nguyễn Trọng T đến nhà Lương Văn Đ ở Phố T, Thị trấn N, huyện N để ăn thanh minh. Đến khoảng gần 10 giờ 30 phút cùng ngày, Lương Văn Đ đã rủ guyễn Văn Sơn, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H và Nguyễn Trọng T đánh bạc thì mọi người đồng ý. Lương Văn Đ đã sử dụng kéo kim loại cắt vỏ bao thuốc lá Thăng Long thành 04 quân vị hình tròn đường kính 02cm đồng thời lấy 01 bát sứ và 01 đĩa sứ tại bếp làm công cụ đánh bạc.

Trước khi vào đánh bạc Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H và Nguyễn Trọng T thống nhất đánh bạc bằng hình thức đánh “Xóc đĩa” được thua bằng tiền mức cá cược mỗi ván bài thấp nhất là 50.000 đồng, cao nhất là 200.000 đồng. Sau khi thống nhất xong Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H và Nguyễn Trọng T bắt đầu ngồi xuống chiếc chiếu cói đã được trải sẵn tại phòng ngủ nhà Định để đánh bạc từ 10 giờ 30 phút ngày 09/4/2021. Nguyễn Trọng T là người trực tiếp “Xóc cái” để đánh bạc. Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T đánh bạc đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày đã bị Tổ công tác Công an Thị trấn N, huyện N phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 11.900.000 đồng, 01 đĩa sứ, 01 bát sứ, 04 quân vị, 01 kéo kim loại, 01 chiếu cói. Thu của Lương Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11; thu của Nguyễn Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno4; thu của Nguyễn Trọng T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; thu của Bùi Văn Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 107; thu của Nguyễn Thị H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7.

Cơ quan điều tra đã chứng minh số tiền mà Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T sử dụng vào mục đích đánh bạc là 11.900.000 đồng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình; Các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại bản cáo trạng số 53/CT-VKSNQ-HS ngày 26/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố các bị cáo Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T về tội: Đánh bạc theo khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T phạm tội: “Đánh bạc”.

* Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lương Văn Đ từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày UBND Thị trấn N nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án (Trừ cho bị cáo 06 ngày tạm giữ = 18 ngày cải tạo không giam giữ). Khấu trừ 5% đến 10% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian cải tạo.

Giao bị cáo cho UBND Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND Thị trấn N trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Phạt bổ sung bị cáo Lương Văn Đ từ 15.000.000 đồng đến 17.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

* Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T từ 25.000.000 đồng đến 27.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn M từ 23.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 23.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn Th từ 23.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 23.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 11.900.000 đồng.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị bằng giấy, 01 kéo kim loại, 01 chiếu cói là công cụ sử dụng vào việc phạm tội.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng đã thu giữ. Mặt khác được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 09/4/2021, tại nhà của Lương Văn Đ ở Phố T, Thị trấn N, huyện N. Công an Thị trấn N, huyện N phát hiện bắt quả tang Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T đang đánh bạc bằng hình thức “Xóc đĩa” được thua bằng tiền với số tiền sử dụng để đánh bạc là 11.900.000 đồng.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự:

Điều 321. Tội đánh bạc:

1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

…………………………………………

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng“.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến lĩnh vực trật tự công cộng được Nhà nước bảo hộ, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương.

Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò nhân thân của từng bị cáo để đưa ra mức hình phạt phù hợp.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng vì vậy các bị cáo đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Lương Văn Đ có mẹ đẻ tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là người có công với cách mạng, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về nhân thân: Bị cáo Lương Văn Đ có nhân thân xấu.

Về vai trò: Đối với bị cáo Lương Văn Đ là người khởi xướng việc đánh bạc bằng hình thức đánh “Xóc đĩa” được thua bằng tiền đồng thời cũng là người chuẩn bị công cụ phương tiện và thực hành tích cực. Vì vậy, bị cáo Định phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với vai trò thứ nhất.

Đối với các bị cáo Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T giữ vai trò là người thực hành tích cực khi được bị cáo Định rủ đánh bạc. Do vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò thứ hai trong vụ án này.

Từ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo, xét bị cáo Lương Văn Đ có nơi cư trú rõ ràng chấp hành tốt giấy báo của cơ quan tiến hành tố tụng, số tiền đánh bạc không lớn vì vậy xét thấy không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, chỉ cần áp dụng Điều 36 BLHS xét xử bằng hình phạt không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo tự cải tạo tại địa phương là đủ.

Đối với các bị cáo Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T giữ vai trò thứ hai trong vụ án, tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo có nhiều tình tiết giảm nhẹ chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính là phù hợp.

[3]. Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập:

Đối với các bị cáo Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T do đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đối với bị cáo Lương Văn Đ cần áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung.

Về khấu trừ thu nhập: Xét bị cáo Định là lao động tự do, thu nhập thấp vì vậy cần khấu trừ thu nhập với bị cáo là 5%/tháng trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 11.900.000 đồng, đây là số tiền liên quan đến hành vi đánh bạc của các bị cáo cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị bằng giấy, 01 kéo kim loại, 01 chiếu cói là công cụ sử dụng vào việc phạm tội, xét không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T phạm tội“Đánh bạc”.

* Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Văn Đ12(mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày UBND Thị trấn N nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án (Trừ cho bị cáo 06 ngày tạm giữ = 18 ngày cải tạo không giam giữ). Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian cải tạo.

Giao bị cáo cho UBND Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND Thị trấn N trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Phạt bổ sung bị cáo Lương Văn Đ 10.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

* Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 23.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn M 21.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 21.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước. Xử phạt bị cáo Bùi Văn Th 21.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 21.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 11.900.000đ (mười một triệu chín trăm nghìn đồng).

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị bằng giấy, 01 kéo kim loại, 01 chiếu cói .

(Theo biên bản giao nhận vật chứng và ủy nhiệm chi giữa Cơ quan Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Lương Văn Đ, Nguyễn Văn S, Bùi Văn M, Bùi Văn Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Trọng T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 65/2021/HS-ST

Số hiệu:65/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về