TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 59/2022/HS-PT NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ. Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/TLPT-HS ngày 03 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo Hà Văn Đ1, Đỗ Công T1, Nguyễn Quang Bảo C1, Nguyễn Văn N1, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện VT, thành phố Cần Thơ.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Hà Văn Đ1, sinh năm 1969; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp PA, thị trấn TA, huyện VT, thành phố Cần Thơ; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Đạo Phật; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Hà Văn Q (Đã chết) và bà Lê Thị N2 (Đã chết); Bị cáo có vợ là bà Đặng Thị L1 và 01 con (sinh năm 1993); Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt ngày 21/9/2021 tạm giữ đến ngày 30/9/2021 được tại ngoại đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Đỗ Công T1, sinh năm 1976; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp PB, thị trấn TA, huyện VT, thành phố Cần Thơ; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Tôn giáo: Công Giáo; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Đỗ Công T2 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị H (Đã chết);
Bị cáo có vợ là Phạm Thị Thủy T3 và 03 người con (Lớn sinh năm 2009 và nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 21/9/2021 và tạm giữ đến ngày 30/9/2021 được tại ngoại đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Quang Bảo C1; sinh năm 1982; Nơi cư trú: đường Đ, Khu vực 4, phường AH, quận NK, thành phố Cần Thơ; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công Giáo; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn:
12/12; Con ông Nguyễn Quang TR và bà Nguyễn Thị Hoàng NG; Bị cáo có vợ là Phạm Thị Hồng Y và 02 người con (Con lớn sinh năm 2014 và con nhỏ sinh năm 2016); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 21/9/2021 và tạm giữ đến ngày 30/9/2021 được tại ngoại đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
4. Nguyễn Văn N1, sinh năm 1966; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp PA, thị trấn TA, huyện VT, thành phố Cần Thơ; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Nguyễn Văn C2 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ1 (Đã chết); Bị cáo có vợ là Đặng Thị B và 03 người con (Lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1993); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 21/9/2021 và tạm giữ đến ngày 30/9/2021 được tại ngoại đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị cáo không kháng cáo được triệu tập: Nguyễn Văn S; Sinh năm 1968; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp PA, thị trấn TA, huyện VT, thành phố cần Thơ (Vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
Ngoài ra, trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác do không kháng cáo, cũng không liên quan đến kháng cáo nên không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 16 giờ ngày 21-9-2021, Công an huyện VT tiến hành triệt phá tụ điểm đánh bạc tại nhà Nguyễn Văn N1, thuộc ấp PA, thị trấn TA, huyện VT. Đánh bạc dưới hình thức chơi bài binh xập xám (mậu binh) thắng thua bằng tiền. Có mặt tại tụ điểm đánh bạc gồm: Nguyễn Văn S, Hà Văn Đ1, Đỗ Công T1, Nguyễn Quang Bảo C1, Nguyễn Văn N1 và các ông Trần Quốc T5, Phan Anh D, Lê Thanh P và Nguyễn Chí C5. Nên lực lượng công an đã mời tất cả về Công an huyện VT để điều tra. Đồng thời còn thu giữ các tang vật gồm: 01 bàn Inox, 04 ghế nhựa màu đỏ, 01 tấm khăn trải bàn màu vàng, 01 lon kim loại màu vàng có chữ “Trà hoa cúc” màu đỏ (hộp đựng trà), 11 bộ bài tây 52 (trong đó có 03 bộ đã qua sử dụng), 10 điện thoại đi động, 04 xe mô tô các loại, 33.500.000 đồng tại vị trí đánh bạc và 101.150.000đ thu trên người các đối tượng.
Kết quả điều tra đã chứng minh được: Vào khoảng 11 giờ ngày 21/9/2021, Nguyễn Văn S, Hà Văn Đ1, Đỗ Công T1 và Nguyễn Quang Bảo C1 hẹn nhau đến nhà của Nguyễn Văn N1 để cùng tham gia đánh bài xập xám ăn tiền. S mang theo 30.000.000 đồng để đánh bạc, nhưng thua hết 19.500.000 đồng nên còn 10.500.000 đồng thì bị thu giữ. Đ1 mang theo 6.500.000 đồng để đánh bạc, thắng được 11.600.000 đồng nên bị thu giữ 18.100.000 đồng. T1 mang theo 10.000.000 đồng để đánh bạc, thắng được 8.700.000 đồng nên bị thu giữ 18.700.000 đồng. C1 mang theo 20.000.000 đồng nhưng chỉ sử dụng 10.000.000 đồng để đánh bạc, thắng được 3.900.000 đồng nên bị thu giữ 23.900.000 đồng. S, Đ1, T1 và C1 đã chơi được khoảng 57 ván bài. Cụ thể: với hình thức ăn thua theo bàn (người làm cái ăn thua với ba người đặt), mỗi ván đặt 100.000 đồng, chơi được khoảng 24 ván. Sau đó thì chuyển sang hình thức ăn thua theo chi (tất cả bốn người chơi ăn thua trực tiếp với nhau), mỗi chi đặt 200.000 đồng, chơi được khoảng 24 ván. Cuối cùng thì nâng lên mỗi chi đặt 300.000 đồng. Chơi được khoảng 09 ván thì bị công an bắt quả tang. S, Đ1, T1 và C1 tự thỏa thuận về việc trả tiền xâu cho N1 bằng việc bỏ tiền vào 01 hộp đựng trà ngay vị trí đánh bạc.
Nguyễn Văn N1 thì sử dụng nhà mình, đồng thời còn chuẩn bị sẵn: bài tây, bàn, ghế, cơm, nước uống, thuốc hút, hộp đựng và 800.000 đồng có mệnh giá nhỏ để cho S, Đ1, T1 và C1 đánh bạc và thu tiền xâu. N1 không thỏa thuận nhận tiền xâu mà do S, Đ1, T1 và C1 tự thỏa thuận. Lúc bị bắt quả tang, bị cáo N1 xác định số tiền xâu của ngày 21/9/2021 là 2.200.000 đồng bỏ trong hộp đựng trà nhưng chưa nhận được thì bị bắt. Ngoài ra, N1 còn thừa nhận đã sử dụng nhà ở của mình cho S, Đ1, T1 và C1 đánh bạc để thu tiền xâu được 02 lần, cụ thể: vào ngày 19/9/2021 thu 500.000 đồng và ngày 20/9/2021 thu 460.000 đồng. N1 đã tự nguyện nộp tại Cơ quan điều tra 960.000 đồng tiền thu lợi bất chính.
Đối với các ông Trần Quốc T5, Phan Anh D, Lê Thanh P và Nguyễn Chí C5 chỉ đến xem, không tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Tại Bản án số 06/2022/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện VT, thành phố Cần Thơ đã quyết định:
Tuyên bố: Các bị cáo Hà Văn Đ1, Đỗ Công T1 và Nguyễn Quang Bảo C1 phạm tội phạm tội Đánh bạc. Bị cáo Nguyễn Văn N1 phạm tội Gá bạc.
Căn cứ vào Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 2 và khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
- Xử phạt Đỗ Công T1 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Thời gian bị cáo T1 bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 30/9/2021 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù khi chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 25.000.000 đồng.
- Xử phạt Hà Văn Đ1 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Thời gian bị cáo Đ1 bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 30/9/2021 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù khi chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng.
- Xử phạt Nguyễn Quang Bảo C1 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Thời gian bị cáo C1 bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 30/9/2021 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù khi chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng.
Căn cứ vào Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 và khoản 3 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
- Xử phạt Nguyễn Văn N1 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Thời gian bị cáo N1 bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 30/9/2021 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù khi chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên phạt Nguyễn Văn S, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi án sơ thẩm đã tuyên, ngày 27/4/2022 các bị cáo Nguyễn Quang Bảo C1, Nguyễn Văn N1, Hà Văn Đ1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo; ngày 28/4/2022 bị cáo Đỗ Công T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm trong thời hạn nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm. [2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Hà Văn Đ1, Nguyễn Quang Bảo C1, Đỗ Công T1, Nguyễn Văn N1 đã thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã tuyên và lời khai đó của các bị cáo là thống nhất nhau. Đối chiếu lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Từ đó có cơ sở kết luận cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Hà Văn Đ1, Đỗ Công T1, Nguyễn Quang Bảo C1 về tội Đánh bạc theo điểm b khoản 2 Điều 321 và xét xử bị cáo Nguyễn Văn N1 về tội Gá bạc theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, về số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc mà cấp sơ thẩm xác định là 56.500.000 đồng là chưa chính xác. Bởi lẽ, khi bắt quả tang Công an đã thu giữ 75.160.000 đồng. Trong đó, có 960.000 đồng tiền xâu do bị cáo N1 tự nguyên nộp, 10.000.000 đồng của bị cáo C1 không sử dụng vào việc đánh bạc, 12.000.000 đồng được thu giữ trên người bị cáo Đ1, 18.700.000 đồng thu giữ trên người của bị cáo T1 và 33.500.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc [gồm 10.500.000 đồng của bị cáo S, 13.900.000 đồng của bị cáo C1, 6.100.000 đồng của bị cáo Đ1 và 3.000.000 đồng trong hộp trà (2.200.000đ tiền xâu do các con bạc bỏ vào và 800.000 đồng của bị cáo N1)]. Như vậy số tiền dùng để đánh bạc đã thu giữ được của các bị cáo là 12.000.000 đồng (thu của bị cáo N1) + 18.700.000 đồng (thu của bị cáo T1) + 33.500.000 đồng = 64.200.000 đồng. Do không ảnh hưởng đến việc xác định điểm, khoản trong việc áp dụng điều luật nên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm là đủ.
[3] Xét thấy, các bị cáo đã tham gia đánh bạc ăn tiền với hình thức sử dụng bài tây 52 là để chơi bài binh xập xám ăn tiền, mỗi tụ 13 lá, gồm 04 người tham gia. Các bị cáo làm cái xoay vòng và cùng mục đích là tướt đoạt tiền lẫn nhau. Do đó, đây là hình thức nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau, nên các bị cáo đều chịu chung về mặt định lượng là 64.200.000 đồng là tiền sử dụng vào việc đánh bạc.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng:
[4.1] Đối với bị cáo Hà Văn Đ1: Bị cáo mang theo 6.500.000 đồng để đánh bạc, bị cáo đã tham gia nhiều ván bài với các bị cáo S, T1 và C1 và thắng được 11.600.000 đồng thì bị bắt. Trước đó bị cáo cũng là người khởi xướng cho việc đánh bạc tại nhà bị cáo N1. Bị cáo kháng cáo cho rằng bị cáo không thỏa thuận với bị cáo N1 để mượn nhà để đánh bạc. Tuy nhiên, tại Biên bản ghi lời khai ngày 30/9/2021 (Bl: 216) bị cáo đã khai rằng “Cách đó 02 ngày tôi gặp trực tiếp ông N1 hỏi mượn nhà của ông N1 để chúng tôi chơi đánh bài và chúng tôi xâu tiền đưa cho ông N1 thì ông N1 đồng ý và mua bài tây, chuẩn bị bàn ghế, đồ ăn, thức uống để phục vụ, cung cấp cho chúng tôi chơi”. Như vậy, có căn cứ cho rằng bị cáo là người khởi xướng việc đánh bạc ăn tiền và thỏa thuận mượn nhà bị cáo N1 làm địa điểm đánh bạc. Bị cáo kháng cáo cho rằng nhân thân tốt, hoàn cảnh khó khăn, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hồi cải. Các tình tiết này đã được cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng. Từ đó xử phạt bị cáo 03 năm tù là phù hợp, đây cũng là mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
[4.2] Đối với bị cáo Nguyễn Quang Bảo C1: Bị cáo sử dụng 10.000.000 đồng để tham gia đánh bạc và tham gia cùng thời điểm với các bị cáo T1, Đ1 và S, bị cáo tham gia và thắng được 3.900.000 đồng thì bị bắt. Bị cáo kháng cáo cho rằng mức án 03 năm tù mà cấp sơ thẩm xử phạt là quá nặng. Đồng thời có nhân thân tốt, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Xét thấy các tình tiết này cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ và toàn diện. Còn mức án 03 năm tù cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng, không nặng. Đối với tình tiết vợ bị cáo đang nuôi hai con nhỏ và vợ bị cáo bị bệnh ung thư, tình tiết này Hội đồng xét xử có xem xét, ghi nhận. Tuy nhiên, lẽ ra trước khi phạm tội bị cáo phải ý thực được vấn đề này để có trách nhiệm với vợ, con bị cáo. Trái lại, bị cáo lại dấn thân vào con đường cờ bạc rồi phạm tội, cho thấy bị cáo cũng không quan tâm gì vợ, con bị cáo một cách tốt nhất. Nay đối diện hình phạt, bị cáo lại đưa ra hoàn cảnh này thì cũng không có căn cứ để chấp nhận.
[4.3] Đối với bị cáo Đỗ Công T1: Bị cáo mang theo 10.000.000 đồng để đánh bạc, bị cáo tham gia từ đầu và thắng được 8.700.000 đồng. Sau khi cấp sơ thẩm xét xử, bị cáo kháng cáo cho rằng có nhân thân tốt, bản thân đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn do chăm 03 con nhỏ. Xét thấy các tình tiết mà bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đã được cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ. Mức án 03 năm tù với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi của bị cáo. Nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo.
[4.4] Đối với bị cáo Nguyễn Văn N1: Bị cáo là người sử dụng nhà của mình và chuẩn bị sẵn các công cụ phương tiện để cho các bị cáo T1, C1, S, Đ1 đánh bạc ăn tiền để bị cáo thu tiền sâu. Trong khi số tiền mà các bị cáo Đ1, T1, S, C1 dùng vào việc đánh bạc là rất lớn. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã tạo điều kiện cho các bị cáo khác có điều kiện để thực hiện việc phạm tội. Hành vi đó đã cấu thành tội Gá bạc, theo khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự. Với mức án 01 năm 06 tháng tù mà cấp sơ thẩm xử phạt cho bị cáo là còn nhẹ đối với bị cáo. Bị cáo kháng cáo cho rằng bị cáo có nhân thân tốt, có thời gian phục vụ ở địa phương, hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hồi cải. Xét thấy các tình tiết giảm nhẹ này đã được cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ đối với bị cáo.
[5] Xét thấy, tất cả cá bị cáo kháng cáo đều cung cấp chứng cứ thể hiện Sau khi xét xử sơ thẩm: Bị cáo Đ1 đã nộp 20.200.000 đồng. Bị cáo C1 đã nộp 10.200.000 đồng. Bị cáo T1 đã nộp 25.200.000 đồng. Bị cáo N1 đã nộp 20.200.000 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy, đây là nghĩa vụ của các bị cáo phải thực hiện theo Bản án sơ thẩm về hình phạt bổ sung và án phí, nên các bị cáo chỉ được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Như đã phân tích, mức án cấp sơ thẩm áp dụng là mức thấp nhất của khung hình phạt. Đồng thời với tình chất và hành vi của bị cáo, cũng như tình trạng đánh bạc ăn tiền và tệ nạn xã hội hiện nay, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Vì vậy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của các bị cáo.
[6] Về thời hạn tạm giữ được khấu trừ khi chấp hành án của các bị cáo: Cấp sơ thẩm tuyên các bị cáo được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 30/9/2021 là chưa phù hợp. Bởi lẽ, các bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/9/2021 đến ngày 22/9/2021 Cơ quan cảnh sát điểu tra ra Quyết định tạm giữ. Như vậy thời hạn tạm giữ của bị cáo là liên tục, bắt đầu từ ngày 21/9/2021 đến ngày 30/9/2021. Do đó Hội đồng xét xử điều chình phần này.
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị nên nên có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[9] Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo phải nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[1] Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của các bị cáo Hà Văn Đ1, Đỗ Công T1, Nguyễn Quang Bảo C1, Nguyễn Văn N1. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HSST ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện VT, thành phố Cần Thơ (Có điều chỉnh phần thời hạn tạm giữ mà các bị cáo được khấu trừ).
[2] Tuyên bố: Các bị cáo Hà Văn Đ1, Đỗ Công T1, Nguyễn Quang Bảo C1 phạm tội Đánh bạc. Bị cáo Nguyễn Văn N1 phạm tội Đánh bạc.
[3] Áp dụng Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 2 Điều 321, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự;
- Xử phạt bị cáo Đỗ Công T1 03 (Ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày chấp hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 21/9/2021 đến ngày 30/9/2021. Phạt bổ sung bị cáo 25.000.000 đồng (Bị cáo đã nộp xong hình phạt bổ sung).
- Xử phạt bị cáo Hà Văn Đ1 03 (Ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày chấp hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 21/9/2021 đến ngày 30/9/2021. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng (Bị cáo đã nộp xong hình phạt bổ sung).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Bảo C1 03 (Ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày chấp hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 21/9/2021 đến ngày 30/9/2021. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng (Bị cáo đã nộp xong hình phạt bổ sung).
[4] Áp dụng Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 322, khoản 3 Điều 322 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N1 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày chấp hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 21/9/2021 đến ngày 30/9/2021. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng (Bị cáo đã nộp xong hình phạt bổ sung).
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 59/2022/HS-PT
Số hiệu: | 59/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về