Bản án về tội đánh bạc số 53/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 23, 27 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đ mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trần Mạnh C, sinh năm 1984 tại Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Mạnh H, sinh năm 1954 và bà Đỗ Thị H, sinh năm 1963; Bị cáo có vợ tên Lê Thị N, sinh năm 1987 và 01 người con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2021 đến ngày 08/10/2021được tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Thị N, sinh năm 1987 tại Thanh Hóa; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn M, sinh năm: 1954 và bà Lê Thị H, sinh năm 1958; Bị cáo có chồng tên Trần Mạnh C, sinh năm 1984 và 01 người con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2021 đến ngày 21/7/2021được tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Lưu Quốc T, sinh năm 1985 tại Trà Vinh; Tên gọi khác: T Bờ Kè; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố X, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lưu Tiến M, sinh năm 1958 và bà Trầm Tú C, sinh năm 1959; Bị cáo có vợ tên Dương Thị Hoài M, sinh năm: 1985 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự:

Không; Bị cáo được tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1991 tại Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 4, xã Đ, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1962 và bà Vũ Thị Hồng N, sinh năm 1961; Bị cáo có vợ tên Trần Thị Kim Y, sinh năm 1991 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2021 cho đến ngày 08/12/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam S áp dụng biện pháp bảo lĩnh; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Cao Đăng K, sinh năm 1985 tại Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 7, khu phố 2, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Anh K, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị Xuân T, sinh năm 1953; Bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2021 đến ngày 27/8/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam S bảo lĩnh; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Nguyễn Thị N, sinh năm 1987 tại Bình Phước; Tên gọi khác: C, U; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Công B (chết) và bà Lê Thị X, sinh năm 1957; Bị cáo có chồng tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1989 và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Ngày 27/7/2021 bị cáo ra đầu thú và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

7. Nguyễn Thị O, sinh năm 1961 tại Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị C (đã chết); Bị cáo có chồng tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1955 và 04 người con, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1989; Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 12/01/2004, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000đồng về hành vi “Đánh bạc” theo Quyết định số 13/QĐ ngày 12/01/2004, bị cáo chưa chấp hành.

Ngày 27/7/2021 bị cáo ra đầu thú và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8. Nguyễn Văn H, sinh năm 1985 tại Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố 3, thị trấn C, huyện Chơn thành, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:

Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1952; Bị cáo có vợ tên Phạm Thị Mộng T, sinh năm 1984 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2012, Tiền án, tiền sự:

Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

9. Phan Thanh M, sinh năm 1969 tại Hà Tĩnh; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Xuân C, sinh năm 1949 và bà Trịnh Thị H, sinh năm 1950; Bị cáo có vợ tên Phan Thị Ngọc T, sinh năm 1982 và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự:

Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/7/2021 đến ngày 21/7/2021 cho tại ngoại và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

10. Phạm Duy H, sinh năm 2000 tại Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn H, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1973; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/7/2021 đến ngày 21/7/2021 cho tại ngoại và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Hà Lê K, sinh năm 1981; Địa chỉ: Khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước

2. Ông Võ Thanh M, sinh năm 1983; Địa chỉ: Khu phố 01, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước

3. Ông Dương H Đ, sinh năm 1975; Địa chỉ: Khu phố 04, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước

4. Ông Phạm Thanh S, sinh năm 1981; Địa chỉ: Khu phố S, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 07 giờ ngày 12/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước kiểm tra hành chính Phan Thanh M phát hiện điện thoại Samsung Galaxy S8 của M có nội dung tin nhắn thể hiện việc đánh bạc trái phép dưới hình thức cá độ bóng đá được thua bằng tiền với người chưa xác định được nhân thân, lai lịch do Trần Mạnh C giới thiệu qua số điện thoại 0854. XXX.XXX. Cơ quan điều tra làm việc với Trần Mạnh C khai nhận đã giới thiệu để Phan Thanh M, Phạm Duy H, Nguyễn Ngọc N, Cao Đăng K nếu có nhu cầu đánh bạc trái phép dưới hình thức cá độ bóng đá được thua bằng tiền và cho số điện thoại 0854.XXX.XXX để cá độ bóng đá, thắng thua sẽ chuyển tiền qua C và C sẽ được hưởng hoa hồng.

Hình thức cá độ bóng đá như sau: Trước khi diễn ra các trận đấu bóng đá, nhà cái đưa ra đội xếp cửa trên, đội xếp cửa dưới, kèo cá cược, tỷ lệ thắng thua cho người chơi lựa chọn:

- Đồng banh: Hai đội ngang bằng, nếu đội đặt cược thắng thì thắng tiền và ngược lại, nếu hai đội hòa nhau thì hòa tiền.

- Chấp 1 trái: Đội cửa trên chấp đội cửa dưới 01 trái. Nếu đội cửa trên thắng cách biệt 02 bàn trở lên thì đặt cược đội cửa trên thắng, đặt cược đội cửa dưới thua đủ tiền; nếu đội cửa trên thua hoặc hòa thì đặt cược đội cửa trên thua đủ tiền, đặt cược đội cửa dưới thắng đủ tiền; nếu đội cửa trên thắng cách biệt 01 bàn thì hòa tiền.

- Chấp ¼ trái: Đội cửa trên chấp đội cửa dưới ¼ trái. Đội đặt cược thắng thì thắng tiền và ngược lại. Nếu 2 đội hòa: Đặt cược đội cửa trên thua nửa tiền, đặt cược đội cửa dưới thắng nửa tiền.

- Chấp 1 trái ¼: Đội cửa trên chấp đội cửa dưới 1 trái ¼. Nếu đội cửa trên thắng cách biệt 02 bàn trở lên thì người đặt cược đội cửa trên thắng, đặt cược đội cửa dưới thua đủ tiền; nếu đội cửa trên thua hoặc hòa thì đặt cược đội cửa trên thua đủ tiền, đặt cược đội cửa dưới thắng tiền; nếu đội cửa trên thắng cách biệt 01 bàn thì đặt cược đội cửa trên thua nửa tiền, đặt cược đội cửa dưới thắng nửa tiền.

- Chấp ½ trái: Đội cửa trên chấp đội cửa dưới ½ trái. Đội đặt cược thắng thì thắng tiền và ngược lại, nếu hai đội hòa thì đặt đội cửa dưới thắng, đặt đội cửa trên thua đủ tiền.

- Chấp ¾ trái: Đội cửa trên chấp đội cửa dưới ¾ trái. Nếu đội cửa trên thắng cách biệt 02 bàn trở lên thì người đặt cược đội cửa trên thắng, đặt cược cửa dưới thua đủ tiền; nếu đội cửa trên thắng cách biệt 01 bàn thì người đặt cược đội cửa trên thắng nửa tiền, đặt cược đội cửa dưới thua nửa tiền; nếu đội cửa trên thua hoặc hòa thì người đặt cược cửa dưới thắng, cược cửa trên thua đủ tiền.

- Kèo tài – xỉu: Là cược tổng số bàn thắng của trận đấu trong 90 phút thi đấu chính thức, phút đá bù giờ của hai hiệp chính, 30 phút của hai hiệp phụ và những bàn thắng của loạt đá penalty (hoặc người chơi cũng có thể đánh kèo tài xỉu chỉ trong hiệp 1, hiệp 2). Nhà cái sẽ đưa ra số bàn thắng ghi được trong trận đấu hoặc hiệp đấu đó, nếu số bàn thắng ghi được cao hơn số bàn thắng nhà cái đưa ra thì gọi là tài, ngược lại gọi là xỉu.

+ Tài xỉu 0, 1, 2, 3… trái: Nếu tổng số bàn thắng ghi được trong trận đấu (hoặc hiệp đấu) lớn hơn con số nhà cái đưa ra thì cược tài thắng tiền, cược xỉu thua hết tiền; nếu tổng số bàn thắng nhỏ hơn con số nhà cái đưa ra thì cược tài thua hết tiền, cược xỉu thắng tiền; nếu tổng số bàn thắng bằng con số nhà cái đưa ra thì người chơi hòa tiền.

+ Tài xỉu 1.25 trái: Nếu tổng số bàn thắng ghi được trong trận đấu (hoặc hiệp đấu) từ 02 bàn trở lên thì cược tài thắng tiền, cược xỉu thua hết tiền, nếu tổng số bàn thắng là 0 thì cược tài thua hết tiền, cược xỉu thắng tiền, nếu tổng số bàn thằng là 1 thì cược tài thua nửa tiền, cược xỉu thắng nửa tiền.

+ Tài xỉu 1.5 trái: Nếu tổng số bàn thắng ghi được trong trận đấu (hoặc hiệp đấu) từ 02 trở lên thì cược tài thắng tiền, cược xỉu thua tiền; nếu tổng số bàn thắng ghi được trong trận đấu (hoặc hiệp đấu) là 1 hoặc 0 thì cược tài thua hết tiền, cược xỉu thắng tiền.

+ Tài xỉu 1.75 trái: Nếu tổng số bàn thắng ghi được trong trận đấu (hoặc hiệp đấu) lớn hơn 2 thì cược tài thắng tiền, cược xỉu thua đủ tiền; nếu tổng số bàn thắng ghi được trong trận đấu (hoặc hiệp đấu) nhỏ hơn 2 thì cược tài thua đủ tiền, cược xỉu thắng tiền, nếu tổng số bàn thắng ghi được trong trận đấu (hoặc hiệp đấu) bằng 2 thì cược tài thắng nửa tiền, cược xỉu thua nửa tiền.

Quá trình điều tra xác định hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức cá độ bóng đá được thua bằng tiền của Trần Mạnh C, Cao Đăng K, Lưu Quốc T, Phan Thanh M và Phạm Duy H khi giải Euro 2020 và giải vô địch bóng đá Nam Mỹ diễn ra như sau:

[1] Đối với Phạm Duy H: Khi diễn ra Euro 2020 và giải vô địch bóng đá Nam Mỹ, H hỏi C kèo cá cược các trận đấu bóng đá. Do đã có thỏa thuận từ trước nên C đưa cho H số điện thoại 0854. XXX.XXX để H trực tiếp cá độ với người sử dụng số điện thoại này, cụ thể:

- Ngày 25/6/2021, trận Chile gặp Paraguay. Tin nhắn từ số điện thoại 0854.820.023 gửi đến điện thoại của H nội dung: “tài xỉu 2 trái, tài ăn 95% tiền, xỉu ăn 92% tiền”. H cược “tài toàn trận” với số tiền 10.000.0000đ. Kết quả Paraguay thắng Chile với tỷ số 2 – 0 nên hai bên hòa tiền. Tổng số tiền H sử dụng để đánh bạc trong trận đấu này là 10.000.000đ (Mười triệu đồng), do hòa nên không chuyển tiền cho nhà cái [bút lục số 231; 840; 847 – 848; 851].

[2] Đối với Phan Thanh M: Khi diễn ra Euro 2020, M hỏi C kèo cá cược các trận đấu bóng đá. Do đã thỏa thuận từ trước nên C đưa cho M số điện thoại 0854. XXX.XXX, M và người sử dụng số điện thoại 0854. XXX.XXX cá độ với nhau và thỏa thuận khi Euro kết thúc sẽ tính tiền thắng, thua cụ thể.

- Ngày 18/6/2021, trận Croatia gặp Cộng Hòa Séc (Croatia chấp ¼ ăn 90% tiền).

M cược “Cộng Hòa Séc thắng với số tiền 5.000.000đ, cược tỷ số 1 - 0 với số tiền 500.000đ, cược tỷ số 1 – 1 (ăn 6,4 lần) với số tiền 200.000đ, tổng số tiền cược của M là 5.700.000đ”. Kết quả hai đội hòa nhau với tỷ số 1 – 1 nên M thắng số tiền 3.530.000đ.

Tổng số tiền đánh bạc của M trong trận đấu này là 9.230.000đ (Chín triệu hai trăm ba mươi ngàn đồng) [bút lục số 158].

- Ngày 18/6/2021, trận Thụy Điển gặp Slovakia (Thụy Điển chấp ½ trái ăn 90% tiền), M cược “Thụy Điển thắng với số tiền 5.000.000đ, cược tỉ số 1 – 0 (ăn 5,6 lần) với số tiền 200.000đ, cược tỷ số 2 - 0 với số tiền 500.000đ”, tổng số tiền cược của M là 5.700.000đ. Kết quả Thụy Điển thắng Slovakia với tỷ số 1 – 0 nên M thắng số tiền 5.620.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của M trong trận đấu này là 11.320.000đ (Mười một triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng).

- Ngày 19/6/2021, trận Anh gặp Scotland (Anh chấp 1 trái ½ ăn 90% tiền). M cược “tỷ số tài toàn trận với số tiền 5.000.000đ”. Kết quả hai đội hòa nhau với tỷ số 0 – 0 nên M thua số tiền 5.000.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của M trong trận đấu này là 5.000.000đ (năm triệu đồng) [bút lục số 135 – 138; 811 – 814; 815 – 816; 825].

- Ngày 02/7/2021, trận Tây Ban Nha gặp Thụy Sỹ (Tây Ban Nha chấp ¾ trái ăn 85% tiền; tài xỉu 2 trái ½ ăn 90% tiền), M cược “tài toàn trận với số tiền 7.000.000đ”. Khi hai đội đá hiệp phụ, M cược “Tây Ban Nha thắng số tiền 4.000.000đ, cược tỷ số tài số tiền 5.000.000đ”. Kết thúc 90 phút thi đấu chính thức hai đội hòa nhau với tỷ số 1 – 1 nên M thua số tiền 7.000.000đ, kết quả hiệp phụ hai đội hòa nhau với tỷ số 0 – 0 nên M thua 9.000.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của M trong trận đấu này là 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng). Quá trình cá cược với nhà cái M thua số tiền 11.847.000đ, Số tiền thắng thua trong các trận bóng đá giữa M và nhà cái (thông qua C), chưa chuyển cho nhau do khi giải Euro vừa kết thúc thì M và C bị bắt nên không thực hiện được [bút lục số 135; 818 – 819; 811 – 814].

[3] Đối với Nguyễn Ngọc N tuy có thỏa thuận với C, nhưng khi giải bóng đá Euro diễn ra thì Nam lại bắt cá độ với một người tên Gà (không rõ nhân thân lai lịch cụ thể như sau: Ngày 12/7/2021 trận chung kết giữa Italia gặp Anh (Anh chấp ¼ ăn 85, tài xỉu 2 trái ăn 90% tiền). N điện thoại đến số điện thoại 0965.934.321 của Gà cược “xỉu số tiền 12.000.000đ”. Khi đá hiệp phụ (đồng banh ăn 70% tiền, tài xỉu ½ ăn 85% tiền), Nam cược “xỉu số tiền 13.000.000đ”. Khi đá Penalty (tài - xỉu 7 trái ăn 85% tiền), Nam cược “xỉu số tiền 13.000.000đ”. Tổng số tiền cược của N là 38.000.000đ. Kết quả 90 phút thi đấu chính thức tỷ số hòa 1 – 1 nên N hòa tiền; kết quả 30 phút hiệp phụ tỷ số hòa 0 – 0 nên N thắng 11.000.000đ; kết quả đá penalty tỷ số 3 – 2 nên N thắng 11.000.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của N trong trận đấu này là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng). Số tiền thắng 22.000.000đ N chưa nhận được thì bị bắt [bút lục số 978 – 979; 987 - 988].

[4] Đối với Cao Đăng K có thỏa thuận với C, nhưng Khi diễn ra giải Euro 2020 và giải vô địch Nam Mỹ, thì K tự đứng ra nhận kèo làm cái, thắng thua với các con bạc cụ thể sau: Ngày 11/7/2021, trận Brazil gặp Argentina (giải bóng đá Nam Mỹ), Lưu Quốc T nhắn tin cho Cao Đăng K hỏi kèo cá cược, K nhắn kèo cho T nội dung: “Brazil chấp ¼ trái ăn 90% tiền, tài xỉu 2 trái ăn 90% tiền”. T cược “Brazil thắng với số tiền 50.000.000đ và tài cả trận số tiền 50.000.000đ”. Kết quả Argentina thắng Brazil với tỷ số 1 – 0 nên T thua K số tiền 100.000.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của Cao Đăng K và Lưu Quốc T trong trận đấu này là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), số tiền này T đưa trực tiếp cho K [bút lục số 289; 300; 394; 997 – 998; 1001].

[5] Ngoài hành vi cá độ bóng đá cùng các đồng phạm trên, Trần Mạnh C còn bàn bạc với vợ là Lê Thị N thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức thầu số đề. C chỉ cho N cách tính toán tiền ghi đề và tiền thắng thua, C sử dụng điện thoại Samsung J7+, số điện thoại 0328. XXX.XXX để nhận tin nhắn từ người ghi đề. Sau đó C giao điện thoại cho N để N tính toán tiền ghi đề và tiền thắng thua. Dựa vào kết quả xổ số đài chính miền Nam (thứ hai đài thành phố Hồ Chí Minh, thứ ba đài Vũng Tàu, thứ tư đài Đồng Nai, thứ năm đài Tây Ninh, thứ sáu đài Bình Dương, thứ bảy đài thành phố Hồ Chí Minh, chủ nhật đài Tiền Giang) và kết quả xổ số miền Bắc.

Hình thức ghi số đề và tỷ lệ thắng như sau:

Đối với hình thức đánh đầu đuôi, bao lô (là các giải trong lô) thì tùy con bạc mà C và N tính tỉ lệ cược là 01 ăn 73 hoặc cược 01 ăn 74, đối với hình thức đánh đề xỉu chủ, bao lô ba số và số đá là cược 01 ăn 630 hoặc cược 01 ăn 640 lần.

Tiền người chơi đánh bạc phải bỏ ra để chơi đề (tiền xác) được tính như sau: Đối với đài miền Nam: Đầu, đuôi đánh 1.000đ thì tiền xác 1.000đ, đánh đầu đuôi 1.000đ thì tiền xác 2.000đ, đánh bao lô hai số 1.000đ thì tiền xác 13.000đ, đánh xỉu chủ 1.000đ thì tiền xác 2.000đ, đánh số đá 1.000đ thì tiền xác 26.000đ (1000đ x 2 x 13 lô), đánh số đá xiên (ba con) 1.000đ thì tiền xác 39.000đ (1000đ x 3 x 13 lô); đối với đài miền Bắc: Đánh đầu 1.000đ thì tiền xác 1.000đ, đánh đuôi 1.000đ thì tiền xác 4.000đ, đánh đầu, đuôi 1.000đ thì tiền xác 5.000đ (1000đ x 5 lô), đánh xỉu chủ 1.000đ thì tiền xác 4.000đ (1000đ x 4 lô), đánh bao lô 1.000đ thì tiền xác 19.000đ (1000đ x 19 lô), đánh số đá 1.000đ thì tiền xác 38.000đ (19.000đ x 2), đánh số đá xiên (ba con) 1.000đ thì tiền xác 58.000đ (19.000đ x 3 lô).

Sau khi có kết quả xổ số, đối chiếu với kết quả đặt cược (ghi số đề) của người ghi số đề, N tính toán tiền thắng thua rồi nhắn tin kết quả cho người ghi số đề. Sau đó, N chuyển tiền cho người ghi số đề bằng hình thức chuyển khoản ngân hàng hoặc trực tiếp đưa tiền.

Căn cứ vào tin nhắn trong điện thoại của N xác định tổng số tiền C và N đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi số đề được thua bằng tiền với Nguyễn Văn H, Nguyễn Thị N và các đối tượng tên H, P, K (chưa rõ nhân thân lai lịch), cụ thể như sau:

- Ngày 09/7/2021, tổng số tiền H đánh bạc đài miền Bắc với N là 5.324.000đ, sau khi kết quả sổ xố miền Bắc mở, H trúng được số tiền 4.440.000đ. Tổng số tiền N đánh bạc với H là 9.764.000đ (Chín triệu bảy trăm sáu mươi bốn ngàn đồng), sau khi tính toán N thắng H số tiền 884.000đ.

- Ngày 10/7/2021 tổng số tiền H đánh bạc đài miền Bắc với N là 3.552.000đ, sau khi kết quả sổ xố miền Bắc mở, H trúng được số tiền 3.400.000đ (tổng số tiền đánh bạc của N và H là 6.952.000đ), sau khi tính toán N thắng H số tiền 152.000đ. Ngoài H ra, ngày 10/7/2021 N đánh bạc bằng hình thức ghi số đề với Phúc (chưa rõ nhân thân, lai lịch) theo đài miền Bắc là 120.000đ và Hí (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là 1.372.000đ, N thắng số tiền 1.492.000đ. Tổng số tiền N đánh bạc ngày 10/7/2021 của đài miền Bắc giữa N, H, P và H là 8.444.000đ (Tám triệu bốn trăm bốn mươi bốn ngàn đồng), thắng số tiền 1.644.000đ.

- Ngày 11/7/2021, Nguyễn Văn H sử dụng số tiền 5.741.000đ ghi số đề đài miền Bắc với N, dựa trên kết quả xổ số đài miền Bắc H trúng là 3.700.000đ, (5.741.000đ - 3.700.000đ = 2.041.000đ H thua), tổng số tiền đánh bạc giữa N và H là 9.441.000đ. Hí dùng số tiền 578.000đ đánh bạc với N, dựa trên kết quả xổ số đài miền Bắc, H trúng 370.000đ (578.000đ – 370.000đ = 208.000đ H thua). Tổng số tiền N đánh bạc ngày 11/7/2021 với H và Hí đài miền Bắc là 10.389.000đ, thắng số tiền 2.249.000đ [bút lục số 186 - 187].

Ngoài đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với Trần Mạnh C và Lê Thị N, Nguyễn Văn H còn đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với các đối tượng B, M, Wy Em (chưa xác định được nhân thân, lai lịch). Trong đó xác định ngày 12/6/2021, tổng số tiền H đánh bạc với B, M, Wy Em là 11.933.000đ. Trong đó tiền xác là 10.533.000đ, tiền người chơi trúng đề là 1.400.000đ, H thắng số tiền 9.133.000đ [bút lục số 928 - 931].

Khoảng tháng 5/2021 Nguyễn Thị N biết C và N đánh bạc bằng cách ghi số đề, nên N thỏa thuận, N ghi số đề với các con bạc và chuyển phơi đề cho N, sau khi kết quả xổ số trong ngày mở, thì tính toán thắng thua với N để hưởng chênh lệch (hoa hồng). Khoảng tháng 6/2021 N bàn bạc với Nguyễn Thị O nhận thầu đề cho một số người chơi ở khu vực xã T, thành phố Đ để kiếm tiền. N sử dụng số điện thoại 0989. XXX.XXX để nhận tin nhắn ghi số đề của các đối tượng “Anh T”, “Bé E” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) và chủ thuê bao của các số điện thoại 0961. XXX.XXX, 0944. XXX.XXX, 0948. XXX.XXX. O nhận ghi số đề của một số đối tượng ở khu vực xã T. Hàng ngày, O nhận ghi số đề cho các con bạc rồi sử dụng điện thoại di động hiệu Masstel, số 0355. XXX.XXX gọi điện thoại đến số 0989. XXX.XXX của N rồi đọc các con số và số tiền người chơi ghi đề cho N ghi âm cuộc gọi để tính toán số tiền đánh bạc. Căn cứ vào kết quả xổ số miền Nam, nếu người chơi thắng thì N đưa tiền cho O để O trả cho người chơi và ngược lại. Số tiền O được hưởng mỗi ngày từ 100.000đ đến 300.000đ tùy theo số tiền thắng, thua của người chơi đề.

Qua việc tự giải trình, tính toán số tiền đánh đề thông qua các đoạn ghi âm thu được trong điện thoại của Nguyễn Thị N xác định số tiền đánh bạc dưới hình thức ghi số đề của Nguyễn Thị N và Nguyễn Thị O với người ghi số đề (không xác định được nhân thân, lai lịch và số lượng người chơi) trong từng lần đánh bạc như sau:

- Ngày 24/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 10.475.000đ. Trong đó tiền xác là 4.175.000đ, tiền người chơi trúng đề là 6.300.000đ. (6.300.000đ – 4.175.000đ = 2.125.000 N thua).

- Ngày 26/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 25.228.000đ. Trong đó tiền xác là 11.728.000đ, tiền người chơi trúng đề 13.500.000đ. (13.500.000đ – 11.728.000đ = 1.772.000đ N thua).

- Ngày 27/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 5.455.000đ. Trong đó tiền xác là 4.405.000đ, tiền người chơi trúng đề là 1.050.000đ (4.405.000đ - 1.050.000đ = 3.355.000đ N thắng).

- Ngày 27/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 8.476.000đ. Trong đó tiền xác là 7.076.000đ, tiền người chơi trúng đề là 1.400.000đ (7.076.000đ - 1.400.000đ = 5.676.000đ N thắng).

- Ngày 28/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 10.949.000đ. Trong đó tiền xác là 8.849.000đ, tiền người chơi trúng đề là 2.100.000đ (8.849.000đ - 2.100.000đ = 6.749.000đ N thắng).

- Ngày 28/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 17.431.000đ. Trong đó tiền xác là 8.481.000đ, tiền người chơi trúng đề là 8.950.000đ (8.950.000đ - 8.481.000đ = 469.000đ N thua).

- Ngày 29/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 11.475.000đ. Trong đó tiền xác là 4.625.000đ, tiền người chơi trúng đề là 6.850.000đ (6.850.000đ - 4.625.000đ = 2.225.000đ N thắng).

- Ngày 29/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 13.472.000đ. Trong đó tiền xác là 10.072.000đ, tiền người chơi trúng đề là 3.400.000đ, (10.072.000đ - 3.400.000đ = 6.672.000đ N thắng).

- Ngày 30/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 6.933.000đ. Trong đó tiền xác là 4.833.000đ, tiền người chơi trúng đề là 2.100.000đ, (4.833.000đ - 2.100.000đ = 2.733.000đ N thắng).

- Ngày 30/6/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 11.780.000đ. Trong đó tiền xác là 8.910.000đ, tiền người chơi trúng đề là 2.870.000đ (8.910.000đ - 2.870.000đ = 6.040.000đ N thắng).

- Ngày 01/7/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 11.758.000đ. Trong đó tiền xác là 10.148.000đ, tiền người chơi trúng đề 1.610.000đ, (10.148.000đ - 1.610.000đ = 8.538.000đ N thắng).

- Ngày 02/7/2021, Tổng số tiền đánh bạc theo đài miền bắc là 16.596.000đ. Trong đó tiền xác là 6.096.000đ, tiền người chơi trúng đề là 10.500.000đ, (10.500.000đ - 6.096.000đ = 4.431.000đ N thua).

- Ngày 02/7/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 20.560.000đ. Trong đó tiền xác là 10.960.000đ, tiền người chơi trúng đề là 9.600.000đ (10.960.000đ - 9.600.000đ = 1.360.000đ N thắng).

- Ngày 03/7/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 10.508.000đ. Trong đó tiền xác là 6.508.000đ, tiền người chơi trúng đề là 4.000.000đ, (6.508.000đ - 4.000.000đ = 2.508.000đ N thắng).

- Ngày 03/7/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 31.778.000đ. Trong đó tiền xác là 12.078.000đ, tiền người chơi trúng đề là 19.700.000đ, (19.700.000đ - 12.078.000đ =7.622.000đ N thua), - Ngày 04/7/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 5.616.000đ. Trong đó tiền xác là 4.216.000đ, tiền người chơi trúng đề là 1.400.000đ, (4.216.000đ - 1.400.000đ = 2.816.000đ N thắng).

- Ngày 04/7/2021, Tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 14.420.000đ là 11.970.000đ, tiền người chơi trúng đề là 2.450.000đ, (11.970.000đ - 2.450.000đ = 9.520.000đ Nhỏ thắng).

- Ngày 05/7/2021, Tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 10.166.000đ. Trong đó tiền xác là 7.806.000đ, tiền người chơi trúng đề 2.360.000đ, (7.806.000đ - 2.360.000đ = 5.446.000đ N thắng).

- Ngày 06/7/2021, Tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 14.786.000đ. Trong đó tiền xác là 9.286.000đ, tiền người chơi trúng đề là 11.250.000đ, (5.500.000đ, (9.286.000đ - 5.500.000đ = 3.786.000đ N thắng).

- Ngày 07/7/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 16.545.000đ. Trong đó tiền xác là 5.295.000đ, tiền người chơi trúng đề là 11.250.000đ, (11.250.000đ – 5.295.000đ = 5.955.000đ N thua).

- Ngày 07/7/2021, Tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 19.234.000đ. Trong đó tiền xác là 11.684.000đ, tiền người chơi trúng đề là 7.550.000đ, (11.684.000đ - 7.550.000đ = 4.134.000đ N thắng).

- Ngày 08/7/2021, tổng số tiển đánh bạc theo đài miền Bắc là 7.844.000đ. Trong đó tiền xác là 6.444.000đ, tiền người chơi trúng đề 1.400.000đ, (6.444.000đ - 1.400.000đ = 5.044.000đ N thắng).

- Ngày 08/7/2021, tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Nam là 15.206.000đ. Trong đó tiền xác là 10.506.000đ, tiền người chơi trúng đề là 4.700.000đ, (10.506.000đ - 4.700.000đ = 5.806.000đ N thắng).

- Ngày 11/7/2021, tổng tiền đánh bạc là 6.504.000đ. Trong đó tiền xác là 3.494.000đ, tiền người chơi trúng đề 3.010.000đ (3.494.000đ - 3.010.000đ = 484.000đ N thắng).

Tổng số tiền thu lợi bất chính của N trong các ngày trên số tiền là 80.667.000đ, N trả tiền công cho O số tiền công ghi đề của các ngày trên là 3.000.000đ, còn lại N hưởng 77.667.000đ [bút lục số 138].

Tại Bản kết luận giám định số 67 ngày 28/9/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:

- Tìm thấy 14 (mười bốn) tập tin hình ảnh trên điện thoại của Phan Thanh M; tìm thấy 30 (ba mươi) tin nhắn và 15 (mười lăm) hình ảnh trên điện thoại của Nguyễn Ngọc N; tìm thấy 38 (ba mươi tám) tin nhắn và 25 (hai mươi lăm) hình ảnh trên điện thoại của Trần Mạnh C; tìm thấy 76 (bảy mươi sáu) tin nhắn và 27 (hai mươi bảy) hình ảnh trên điện thoại của Lê Thị N; tìm thấy 02 (hai) hình ảnh trên điện thoại của Phạm Duy H; tìm thấy 16 (mười sáu) hình ảnh trên điện thoại của Nguyễn Thị N; tìm thấy 42 (bốn mươi hai) hình ảnh trên điện thoại của Nguyễn Văn H.

- Không phát hiện dấu vết cắt, ghép, chỉnh sửa nội dung của 141 tập tin hình ảnh sau khi trích xuất được trong các điện thoại gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 77/GĐ-KTS ngày 25/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận đối với 98 (chín mươi tám) tập tin ghi âm thu giữ trong máy điện thoại của Nguyễn Thị Nhỏ không bị cắt ghép, chỉnh sửa.

Tại bản Cáo trạng số 02/CT-VKSBP-P2 ngày 04 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố các bị cáo Lưu Quốc T, Cao Đăng K và bị cáo Nguyễn Ngọc N về tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự; Truy tố các bị cáo Trần Mạnh C, Lê Thị N, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị O, Nguyễn Văn H, Phan Thanh M, Phạm Duy H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 50; Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lưu Quốc T mức hình phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 50; Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Cao Đăng K mức hình phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 50; Điều 54, Điều 58 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Ngọc N mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 35, Điều 50; Điều 58 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Mạnh C mức hình phạt từ 80.000.000đ đến 100.000.000đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 35, Điều 50; Điều 58 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lê Thị N mức hình phạt từ 60.000.000đ đến 70.000.000đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điểu 52; Điều 17, Điều 35, Điều 50; Điều 58 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị N mức hình phạt 70.000.000đồng đến 80.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 35, Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị O mức hình phạt 70.000.000đồng đến 80.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38, Điều 50; Điều 58 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức hình phạt 50.000.000đồng đến 60.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 35, Điều 50; Điều 58 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Phan Thanh M mức hình phạt 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 35, Điều 50; Điều 58 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Phạm Duy H mức hình phạt tiền từ 30.000.000đồng đến 40.000.000 đồng.

* Về hình phạt bổ sung: Không.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị hội đồng xét xử tuyên:

+ Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8+, màu đen, số IMEI 1: 359116088190484, IMEI 2: 359117088190842, gắn sim số: 0918. XXX.XXX của Phan Thanh M; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, số Seri: F17SG3P3HG80, gắn sim số: 0964. XXX.XXX của Nguyễn Ngọc N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model TA-1174, gắn sim số: 0776. XXX.XXX của Nguyễn Ngọc N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu vàng đồng, số IMEI: 357294093438149; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu vàng, số IMEI: 355688075148448 của Trần Mạnh C; 01 (một) sim điện thoại di động, mặt sau sim có ghi chữ “4G mobiphone”, có các dãy chữ số “8401180933236482WD” của Trần Mạnh C; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7+, số IMEI 1: 35280809070781, số IMEI 2: 35280990705789, số sim: 0328. XXX.XXX và 01 (một) điện thoại di động hiệu Galaxy S10, IMEI 1: 354622106087045, IMEI 2: 354623106087043, số sim:

0938. XXX.XXX của Lê Thị N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu trắng, số IMEI: 355565707387596, số sim: 0979. XXX.XXX của Phạm Duy H; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A32 màu xanh, số IMEI 1: 355870660879013, IMEI 2: 357848350879012, số sim: 0989. XXX.XXX của Nguyễn Thị N; 01 (một) điện thoại di động hiệu MASSTEL, màu đen, số IMEI: 355314103525396, số SIM: 0355.775.xxx của Nguyễn Thị O; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S9+, màu vàng, số IMEI 1: 355331090157397, IMEI 2: 355332090157395, số sim 1: 0707 XXX.XXX, số sim 2: 0915. XXX.XXX của Cao Đăng K; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A11, màu xanh đen, số IMEI 1: 864182042447178, IMEI 2: 864182042447160, số sim: 0866. XXX.XXX của Nguyễn Văn H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu xanh, đã bị hư hỏng không khởi động được của Lưu Quốc T;

+ Đối với Trần Mạnh C: Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền số tiền 75.085.000 đồng (Bảy mươi lăm triệu không trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

+ Đối với 05 thẻ ATM mang tên Lê Thị N; 03 thẻ ATM mang tên Trần Mạnh C. Đây là tài sản hợp pháp của bị cáo C và N và không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

+ Đối với: 01 (một) điện thoại di động hiệu hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, số IMEI: 356773082205321, gắn sim số: 0905. XXX.XXX của Hà Lê K; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu đỏ, số IMEI1: 354402101654937, IMEI2: 354403101654935, số sim: 0394. XXX.XXX của Võ Thanh M; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đỏ, số IMEI: 355350083225623, số sim: 0941. XXX.XXX của Dương H Đại; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A6+, IMEI1: 356472090197592, số IMEI2: 356473090197590, gắn sim số: 0824. XXX.XXX của Phạm Thanh S, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu hồng, số IMEI: 35735070619608, số sim: 0378 XXX.XXX của Dương H Đ. Đây là phương tiện các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc. Tuy nhiên, hành vi của các đối tượng này chưa đến mức xử lý hình sự, nên không phải là phương tiện, công cụ sử dụng vào việc phạm tội, đề nghị trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp.

- Đề nghị truy thu số tiền thu lợi bất chính của Cao Đăng K là 100.000.000 đồng; Nguyễn Thị N: 77.667.000 đồng; Nguyễn Thị O 3.000.000 đồng.

* Về trách nhiệm dân sự: Không.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 02/CT-VKSBP-P2 ngày 04 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp nhau, phù hợp với kết luận điều tra, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ đồ vật tài liệu, biên bản kiểm tra điện thoại; biên bản về người phạm tội đầu thú; biên bản tính toán tiền đánh bạc; các kết luận giám định; kết quả tra cứu thông tin chủ thuê bao điện thoại, phù hợp về vật chứng vụ án, thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Trong mùa giải bóng đá Euro năm 2020 và giải vô địch bóng đá Nam Mỹ vào tháng 6/2021, bị cáo Trần Mạnh C đã bàn bạc với người sử dụng số điện thoại 0854. XXX.XXX sau đó giới thiệu và đứng ra bảo lãnh để các bị cáo Phan Thanh M, Phạm Duy H, Cao Đăng K và Nguyễn Ngọc N đánh bạc trái phép được thua bằng tiền với người sử dụng số điện thoại 0854. XXX.XXX (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) nhằm mục đích hưởng tiền hoa hồng.

Từ sự giới thiệu và bảo lãnh của cáo C, bị cáo M đã 04 lần thực hiện hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền. Trong đó ngày 18/6/2021, số tiền đánh bạc của bị cáo M trận Croatia gặp Cộng Hòa Séc là 9.230.000đ, thắng số tiền 3.530.000đ; trận Thụy Điển gặp Slovakia số tiền đánh bạc của bị cáo M là 11.320.000đ, thắng số tiền 5.620.000đ; ngày 19/6/2021, số tiền đánh bạc của bị cáo M là 5.000.000đ; ngày 02/7/2021 số tiền đánh bạc của bị cáo M là 16.000.000đ, tổng số tiền bị cáo M thắng được qua các lần đánh bạc là 9.150.000đ.

Bị cáo Phạm Duy H đã 01 lần thực hiện hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền vào ngày 25/6/2021 với số tiền là 10.000.000đ.

Đối với bị cáo Cao Đăng K và bị cáo Nguyễn Ngọc N sau khi được C giới thiệu, nhưng K và Nam không đánh bạc với người mà C giới thiệu có số điện thoại trên, mà tự tham gia với các đối tượng khác như sau:

Ngày 10/7/2021, Cao Đăng K và Lưu Quốc T thực hiện hành đánh bạc trái phép được thua bằng tiền với nhau, số tiền đánh bạc là 100.000.000đ, bị cáo K thắng bị cáo T số tiền 100.000.000đ.

Ngày 12/7/2021, bị cáo Nguyễn Ngọc N thực hiện hành đánh bạc trái phép được thua bằng tiền với người tên Gà (chưa xác định được nhân thân lai lịch) số tiền đánh bạc là 60.000.000đ. Bị cáo N thắng số tiền 22.000.000đ.

Ngoài ra, bị cáo Trần Mạnh C cùng với bị cáo Lê Thị N còn bàn bạc với nhau thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi số đề. Từ ngày 09/7/2021 đến ngày 11/7/2021, bị cáo Trần Mạnh C cùng với bị cáo Lê Thị N đã 03 lần thực hiện vi đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi số đề, lần nhiều nhất là 10.389.000đ, lần ít nhất là 8.444.000đ. Tổng số tiền bị cáo N thắng được qua 03 lần đánh bạc là 4.777.000đ.

Ngày 12/6/2021, bị cáo Nguyễn Văn H đã thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền với Bibo, Mân Nguyễn, Wy Em (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) với tổng số tiền là 11.933.000đ. Từ ngày 09/7/2021 đến ngày 11/7/2021, bị cáo Nguyễn Văn H đã 03 lần thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền với bị cáo Trần Mạnh C và bị cáo Lê Thị N. Trong đó lần nhiều nhất là 9.764.000đ (Chín triệu bảy trăm sáu mươi bốn ngàn đồng), lần ít nhất là 6.952.000đ (Sáu triệu chín trăm năm mươi hai ngàn đồng). Tổng số tiền bị cáo H thắng được qua các lần đánh bạc là 20.673.000đ.

Từ ngày 24/6/2021 đến ngày 11/7/2021, bị cáo Nguyễn Thị N và bị cáo Nguyễn Thị O đã 24 lần thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc dưới hình thức ghi số đề, trong đó lần nhiều nhất là 31.778.000đ, lần ít nhất là 5.455.000đ. Bị cáo Nhỏ thu lợi số tiền 80.667.000đ, trả tiền công cho bị cáo O 3.000.000 đ, còn lại 77.667.000đ.

Như vậy hành vi của các bị cáo Trần Mạnh C, Cao Đăng K, Lưu Quốc T, Nguyễn Ngọc N, Phạm Duy H, Nguyễn Văn H, Phan Thanh M, Lê Thị N, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị O đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Cao Đăng K, Lưu Quốc T sử dụng 100.000.000đ, bị cáo Nguyễn Ngọc N sử dụng 60.000.000đ vào mục đích đánh bạc nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Trần Mạnh C, Lê Thị N, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị O, Nguyễn Văn H, Phan Thanh M, Phạm Duy H phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Các bị cáo là người đã thành niên, khi thực hiện hành vi đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền các bị cáo hoàn toàn nhận thức được đó là hành vi phạm tội và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì xuất phát từ động cơ vụ lợi, các bị cáo đã cùng nhau tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá, lô đề thắng thua bằng tiền nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của nhau. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến nếp sống văn M của khu dân cư, đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương, đi ngược lại với việc đấu tranh phòng chống tệ nạn cờ bạc trên địa bàn thành phố Đ nói riêng và trong toàn xã hội nói chung, đồng thời là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo biết rõ hành vi đánh bạc trái phép sẽ bị pháp luật nghiêm trị, nhưng vì động cơ vụ lợi các bị cáo vẫn phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện sự xem thường pháp luật. Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo cần xử một mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi và hậu quả do các bị cáo gây ra để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn nên cần xem xét đến vai trò, đặc điểm nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để cá thể hóa hình phạt cho tương xứng với từng bị cáo.

Bị cáo C là người giới thiệu và bảo lãnh cho bị cáo M, bị cáo H, bị cáo N và bị cáo K tham gia đánh bạc cá độ đá bóng để nhằm mục đích hưởng tiền hoa hồng, ngoài ra bị cáo còn cùng với bị cáo N thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi số đề.

Bị cáo N, bị cáo N, bị cáo H và bị cáo O tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức ghi số đề nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm tương xứng với hành vi và hậu quả mà các bị cáo gây ra.

Bị cáo M, bị cáo H, bị cáo T, bị cáo N, bị cáo K sau khi được sự giới thiệu của bị cáo C các bị cáo đã tham gia đánh bạc cá độ đá bóng nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm tương xứng với hành vi và hậu quả mà các bị cáo gây ra.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo M, C, N, H, Nhỏ, O phạm tội 02 lần trở lên nên phải chịu trách nhiệm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra các bị cáo C, N, K, M, Nam, H, T, H, Nhỏ và bị cáo O đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội các bị cáo T, N, O đã ra đầu thú; Bị cáo H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Các bị cáo C, N, K, M, N, T, H, Nhỏ đều có con còn nhỏ, là lao động chính trong gia đình;

Bị cáo O là người lớn tuổi, bị cáo O có 01 tiền sự: ngày 12/01/2004, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000đ về hành vi “Đánh bạc” theo Quyết định số 13/QĐ ngày 12/01/2004, bị cáo chưa chấp hành Bị cáo C có bà nội là bà mẹ Việt Nam anh hùng, ông nội và 02 bác ruột là liệt sĩ; Bị cáo N có cha đẻ được Nhà nước tặng thưởng huân chương chiến sĩ vẻ vang vì có thành tích suất sắc trong quân đội nhân dân và Huy chương quân kỳ quyết thắng vì có thành tích trong quá trình xây dựng quân đội, củng cố quốc phong và bảo vệ tổ quốc; Bị cáo N có anh ruột là liệt sĩ; Bị cáo H có mẹ ruột là người có công cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Bị cáo M có ông Ngoại được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước; Bị cáo H có ông Nội và bà nội được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự nên được Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Để pháp luật được nghiêm chỉnh chấp hành và góp phần giáo dục răn đe phòng ngừa chung trong xã hội, đồng thời áp dụng chính sách nhân đạo của pháp luật, của Nhà nước, mặt khác các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và thực hiện chính sách H hồng của pháp luật nên chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo cũng đủ để giáo dục cải tạo các bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình để trở thành công dân có ích cho xã hội sau này.

[7] Quá trình điều tra thu giữ nhiều tin nhắn trong điện thoại của bị cáo Cao Đăng K có nội dung nhắn tin kèo, tỷ lệ và số tiền cá cược với M (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) vào ngày 08/7/2021 với tổng số tiền 49.000.000đ. K khai nhận khi K nhắn tin rủ M cá cược thì M không trả lời bằng tin nhắn, mà có gọi lại bằng điện thoại cho K nói “không nhận kèo”, ngoài nội dung tin nhắn và lời khai của K, không có tài liệu chứng cứ nào khác, để chứng M. Do thời hạn điều tra đã hết nhưng chưa xác định người tên M, do vậy hành vi trên của Cao Đăng K cần tách ra tiếp tục xác M xử lý sau.

Lời khai của các bị cáo Trần Mạnh C, Lê Thị N, Nguyễn Thị N và Nguyễn Thị O khai ghi số đề với nhiều người. Tuy nhiên, quá trình điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ nào khác nên không đủ căn cứ xác định người ghi số đề là ai, tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc chưa đến 20.000.000đ/01 lần và chưa đủ 10 người. Do đó, không có đủ căn cứ để xử lý đối với các bị cáo C, N, N và O về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Quá trình điều tra các bị cáo Trần Mạnh C, Phạm Duy H, Cao Đăng K, Nguyễn Ngọc N khai nhận hành vi đánh bạc trên mạng Internet. Tuy nhiên, tài khoản đăng nhập trên trang web cá độ của các bị can đã bị khóa, đồng thời không chứng M được số tiền cá cược các trận bóng đá trên trang web, nên không đủ căn cứ để xử lý đối với các bị cáo C, H, K, N về hành vi “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” theo quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Hành vi đánh bạc của Dương H Đ; Hà Lê K; Phạm Thanh S và Võ Thanh M, do số tiền đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiện hình sự, các đối tượng không có tiền án, tiền sự, nên chưa đến mức xử lý hình sự về tội “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự. Ngày 18/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính Đại, S, M, K mỗi người số tiền 1.500.000đ.

Đối với người tên Gà và M là người đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá.

Hiện nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch, nên tách ra tiếp tục điều tra.

Hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi số đề của Bibo, Wy em, Mân Nguyễn, Bé E, Anh T, Hí, P, K và chủ các số thuê bao số 0562. XXX.XXX, 0961. XXX.XXX, 0944. XXX.XXX, 0948. XXX.XXXv. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước chưa xác định được nhân thân lai lịch, nên tách ra tiếp tục điều tra.

Hành vi của Lê Thị N đánh bạc với Nguyễn Thị N trong 01 tuần tính đến ngày 08/7/2021 theo đài miền Nam là 46.642.000đ, theo đài miền Bắc là 16.600.000đ. Do không xác định được số tiền cụ thể các bị can đánh bạc từng ngày nên không đủ căn cứ để xử lý đối với N và N về hành vi đánh bạc này.

Các hình ảnh phục hồi được trong điện thoại của Lê Thị N xác định số tiền N đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với Nguyễn Thị N là 12.090.000đ (trong đó lần ít nhất là 760.000đ, lần nhiều nhất là 7.426.000đ). Do không xác định được ngày, tháng, năm cụ thể, không xác định được số tiền thắng, thua giữa N với N nên không đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với hành vi này.

Các hình ảnh phục hồi được thể hiện Nguyễn Văn H đánh bạc trong nhiều ngày với số tiền là 74.090.000đ với Trần Mạnh C, B, Wy em, M. Trong đó xác định ngày 12/6/2021, tổng số tiền H đánh bạc với B, M, Wy Em là 11.933.000đ. Đối với các hình ảnh còn lại không xác định được ngày, tháng, năm cụ thể nên không có đủ căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Văn H về hành vi đánh bạc này.

Đối với đối Nguyễn Văn B và S lấy trang web cá độ bóng đá từ Trần Mạnh C, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của Bình và Sơn. Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác M, xử lý.

Số điện thoại 0854. XXX.XXX qua tra cứu thông tin thuê bao người đứng tên là Trần Thị Thủy Tiên, sinh năm 1966. Quá trình điều tra xác định bà T không đăng ký thông tin và sử dụng thuê bao số 0854. XXX.XXX và cũng không quen biết, không liên quan đến việc đánh bạc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước tách ra tiếp tục xác M xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 15/6/2021, Phạm Duy H đánh bạc với người sử dụng số điện thoại 0854.820.023 số tiền là 3.000.000đ. Ngày 05/7/2021, tổng số tiền đánh bạc của N với Hí, tiền xác của đài miền Nam (đài thành phố Hồ Chí Minh) là 4.298.000đ, tổng số tiền xác đài miền Bắc là 906.000đ. Sau khi tính toán thắng thua, N thắng số tiền 4.446.000đ. Ngày 06/7/2021, tổng số tiền N đánh bạc với H, tiền xác đài miền Nam là 4.894.00đ, dựa trên kết quả xổ số đài miền Bắc là 2.636.000đ, N thắng số tiền 2.350.000đ. Ngày 07/7/2021, số tiền N đánh bạc với H dựa trên kết quả xổ số đài miền N là 4.140.000đ, dựa trên kết quả xổ số đài miền Bắc là 2.428.000đ, N thua số tiền 136.000đ. Ngày 07/7/2021, số tiền N đánh bạc với K là 384.000đ (không xác định được đài và số tiền đánh). Ngày 08/7/2021, số tiền N đánh bạc với Hí dựa trên kết quả xổ số đài miền Nam là 1.331.000đ, dựa trên kết quả xổ số đài miền Bắc là 2.294.000đ, N thắng số tiền 3.625.000đ. Số tiền N đánh bạc với K (không xác định được số tiền đánh) là 118.000đ (đài miền Nam) và 177.000đ (đài miền Bắc). Ngày 10/7/2021, số tiền N đánh bạc với Hí và thắng được dựa trên kết quả xổ số đài miền Bắc là 1.372.000đ. Do số tiền đánh bạc từng lần chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Bình phước đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Duy H, Lê Thị N và Trần Mạnh C.

[8] Về vật chứng vụ án:

Số tiền 75.085.000 đồng của bị cáo C cần tiếp tục quản thủ để bảo đảm thi hành án.

05 thẻ ATM mang tên Lê Thị N; 03 thẻ ATM mang tên Trần Mạnh C, đây là tài sản hợp pháp của bị cáo C và N không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho các bị cáo.

01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8+, màu đen, số IMEI 1: 359116088190484, IMEI 2: 359117088190842, gắn sim số: 0918. XXX.XXX của Phan Thanh M; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, số Seri: F17SG3P3HG80, gắn sim số: 0964. XXX.XXX của Nguyễn Ngọc N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model TA-1174, gắn sim số: 0776. XXX.XXX của Nguyễn Ngọc N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu vàng đồng, số IMEI: 357294093438149; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu vàng, số IMEI: 355688075148448 của Trần Mạnh C; 01 (một) sim điện thoại di động, mặt sau sim có ghi chữ “4G mobiphone”, có các dãy chữ số “8401180933236482WD” của Trần Mạnh C; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7+, số IMEI 1: 35280809070781, số IMEI 2: 35280990705789, số sim: 0328 XXX.XXX và 01 (một) điện thoại di động hiệu Galaxy S10, IMEI 1: 354622106087045, IMEI 2: 354623106087043, số sim: 0938. XXX.XXX của Lê Thị N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu trắng, số IMEI: 355565707387596, số sim: 0979. XXX.XXX của Phạm Duy H; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A32 màu xanh, số IMEI 1: 355870660879013, IMEI 2: 357848350879012, số sim: 0989. XXX.XXX của Nguyễn Thị Nhỏ; 01 (một) điện thoại di động hiệu MASSTEL, màu đen, số IMEI: 355314103525396, số SIM: 0355. XXX.XXX của Nguyễn Thị O; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S9+, màu vàng, số IMEI 1: 355331090157397, IMEI 2: 355332090157395, số sim 1: 0707 XXX.XXX, số sim 2: 0915. XXX.XXX của Cao Đăng K; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A11, màu xanh đen, số IMEI 1: 864182042447178, IMEI 2: 864182042447160, số sim: 0866. XXX.XXX của Nguyễn Văn H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu xanh, đã bị hư hỏng không khởi động được của Lưu Quốc T, đây là phương tiện các bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

01 (một) điện thoại di động hiệu hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, số IMEI: 356773082205321, gắn sim số: 0905. XXX.XXX của Hà Lê K; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu đỏ, số IMEI1: 354402101654937, IMEI2: 354403101654935, số sim: 0394. XXX.XXX của Võ Thanh M; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đỏ, số IMEI: 355350083225623, số sim: 0941.377.444 của Dương H Đại; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A6+, IMEI1: 356472090197592, số IMEI2: 356473090197590, gắn sim số: 0824. XXX.XXX của Phạm Thanh S, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu hồng, số IMEI: 35735070619608, số sim: 0378 XXX.XXX của Dương H Đ. Đây là phương tiện các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc. Tuy nhiên, hành vi của các đối tượng này chưa đến mức xử lý hình sự, nên không phải là phương tiện, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp.

Truy thu số tiền thu lợi bất chính của bị cáo Cao Đăng K là 100.000.000 đồng;

bị cáo Nguyễn Thị N là 77.667.000 đồng và bị cáo Nguyễn Thị O 3.000.000 đồng.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo: Trần Mạnh C, Lê Thị N, Lưu Quốc T, Nguyễn Ngọc N, Cao Đăng K, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị O, Nguyễn Văn H, Phan Thanh M, Phạm Duy H phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 50, 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lưu Quốc T 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/5/2022).

Tuyên giao bị cáo Lưu Quốc T cho Ủy ban nhân dân phường Tân Xuân, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Lưu Quốc T số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

- Áp dụng điểm b khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 50, 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Cao Đăng K 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/5/2022).

Tuyên giao bị cáo Cao Đăng K cho Ủy ban nhân dân phường Tân Đồng, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Cao Đăng K số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

- Áp dụng điểm b khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 50, 54, 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/5/2022).

Tuyên giao bị cáo Nguyễn Ngọc N cho Ủy ban nhân dân xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Ngọc N số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Trong thời gian thử thách nếu các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 35, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Mạnh C số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 35, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thị N số tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng).

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 35, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N số tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng).

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 35, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị O số tiền 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng).

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H số tiền 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 35, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Thanh M số tiền 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 35, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Duy H số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng).

3. Về vật chứng của vụ án:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tuyên quản thủ số tiền 75.085.000 đồng của bị cáo Trần Mạnh C để bảo đảm thi hành án;

- Trả lại cho bị cáo N 05 thẻ ATM mang tên Lê Thị N.

- Trả lại cho bị cáo Trần Mạnh C 03 thẻ ATM mang tên Trần Mạnh C.

- Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8+, màu đen, số IMEI 1: 359116088190484, IMEI 2: 359117088190842, gắn sim số: 0918. XXX.XXX của Phan Thanh M.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model TA-1174, gắn sim số: 0776.6xx35 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, số Seri: F17SG3P3HG80, gắn sim số: 0964. XXX.XXX của Nguyễn Ngọc N.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu vàng đồng, số IMEI: 357294093438149; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu vàng, số IMEI: 355688075148448 và 01 (một) sim điện thoại di động, mặt sau sim có ghi chữ “4G mobiphone”, có các dãy chữ số “8401180933236482WD” của Trần Mạnh C.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7+, số IMEI 1: 35280809070781, số IMEI 2: 35280990705789, số sim: 0328.376.36x và 01 (một) điện thoại di động hiệu Galaxy S10, IMEI 1: 354622106087045, IMEI 2: 354623106087043, số sim: 0938. XXX.XXX của Lê Thị N.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu trắng, số IMEI: 355565707387596, số sim: 0979. XXX.XXX của Phạm Duy H.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A32 màu xanh, số IMEI 1: 355870660879013, IMEI 2: 357848350879012, số sim: 0989. XXX.XXX của Nguyễn Thị Nhỏ.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu MASSTEL, màu đen, số IMEI: 355314103525396, số SIM: 0355. XXX.XXX của Nguyễn Thị O.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S9+, màu vàng, số IMEI 1: 355331090157397, IMEI 2: 355332090157395, số sim 1: 0707333456, số sim 2: 0915.XXX.XXX của Cao Đăng K.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A11, màu xanh đen, số IMEI 1: 864182042447178, IMEI 2: 864182042447160, số sim: 0866. XXX.XXX của Nguyễn Văn H.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu xanh, đã bị hư hỏng không khởi động được của Lưu Quốc T.

- Trả lại cho Hà Lê K 01 (một) điện thoại di động hiệu hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, số IMEI: 356773082205321, gắn sim số: 0905. XXX.XXX;

- Trả lại cho Võ Thanh M 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu đỏ, số IMEI1: 354402101654937, IMEI2: 354403101654935, số sim: 0394. XXX.XXX.

- Trả lại cho Dương H Đại 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đỏ, số IMEI: 355350083225623, số sim: 0941. XXX.XXX và 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu hồng, số IMEI: 35735070619608, số sim: 0378 XXX.XXX.

- Trả lại cho Phạm Thanh S 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A6+, IMEI1: 356472090197592, số IMEI2: 356473090197590, gắn sim số: 0824. XXX.XXX.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 0001970 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).

4. Về án phí:

Căn cứ Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về