Bản án về tội đánh bạc số 46/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16/6/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982; tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề ngH: Buôn bán; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ1, sinh năm 1945; con bà Đào Thị D (đã chết); có vợ tên Phạm Thị Ngọc T, sinh năm 1984; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2015 và nhỏ nhất sinh ngày 30/5/2022; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 25/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương xử 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 71/2020/HSST, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 08/7/2021 và đã đóng án phí; Nhân thân: Ngày 06/01/2016, bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương xử 08 tháng 13 ngày tù về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 02/2016/HSST. Nguyễn Văn Đ đã chấp hành xong hình phạt tù và đã đóng án phí; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 19/02/2022 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Trần Minh L, sinh năm 1991; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương (có mặt tại phiên tòa).

+ Ông Trương Văn H, sinh năm 1980; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương (có mặt tại phiên tòa).

+ Ông Nguyễn Như N, sinh năm 1978; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương (có mặt tại phiên tòa).

+ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương (có mặt tại phiên tòa).

+ Ông Dương Minh C, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương (có mặt tại phiên tòa).

+ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1988; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 45 phút ngày 01/8/2021, Công an xã T bắt quả tang tại lô cao su số 16 Nông trường cao su T thuộc ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương nhóm người đang đánh bạc Đ thua bằng tiền dưới hình thức lắc tài xỉu. Khi thấy Công an, các đối tượng bỏ chạy, Công an chỉ bắt giữ Đ đối tượng Trần Minh L. Đến chiều ngày 01/8/2021, Trương Văn H đến Công an xã trình diện. Ngày 02/8/2021, Nguyễn Văn Đ đến Công an xã trình diện. Ngày 07/8/2021, Nguyễn Văn N, Nguyễn Văn M, Dương Minh C và Nguyễn Như N đến Công an xã trình diện.

Hình thức chơi tài xỉu: Sử dụng bộ lắc tài xỉu gồm: 03 hột xí ngầu (mỗi hột có 6 mặt, mỗi mặt có dấu chấm từ 1 đến 6), đĩa, hộp và nắp hộp. Nhà cái cho ba hột vào hộp, đậy nắp lại và lắc, sau đó đổ 03 hột ra, rồi cộng các chấm của 03 hột xí ngầu lại, tổng điểm từ 03 đến 10 là xỉu, từ 11 đến 18 là tài, ba hột có chấm giống nhau là bão. Người làm cái so sánh số điểm trên hột xí ngầu để ra kết quả là tài hay xỉu vào các ô người chơi đặt cược. Nếu người chơi đặt vào ô giống kết quả của lần lắc thì nhà cái thua, nhà cái phải trả cho người chơi số tiền đặt cược; nếu khác với kết quả của lần lắc đó thì nhà cái thắng, người chơi bị mất số tiền đặt cược cho nhà cái. Bão tài thì ăn xỉu, bão xỉu thì ăn tài.

Quá trình điều tra xác định hành vi cụ thể của các đối tượng như sau:

- Nguyễn Văn Đ: Khoảng 12 giờ ngày 01/8/2021, Đ đi bộ đến lô cao su số 16 Nông trường cao su T thuộc ấp B, xã T, huyện D để chơi đánh bạc. Khi đi, Đ mang theo 01 bộ dụng cụ lắc tài xỉu và số tiền 600.000 đồng để sử dụng vào việc đánh bạc. Đ tham gia đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu Đ thua bằng tiền cùng với L, N, M, C, N, H. Quá trình chơi, Đ làm cái khoảng 30 ván, khi bị Công an bắt quả tang thì Đ thua 450.000 đồng, còn lại 150.000 đồng thì cầm theo cùng với bộ lắc tài xỉu bỏ chạy, sau đó đến Công an xã khai nhận và giao nộp lại số tiền 150.000 đồng. Bộ lắc tài xỉu Đ đã ném bỏ nhưng không nhớ địa điểm nên không thu hồi Đ.

- Trần Minh L: Khoảng 12 giờ ngày 01/8/2021, L đi bộ đến địa điểm đánh bạc. Khi đi mang theo số tiền 650.000 đồng để sử dụng vào việc đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu Đ thua bằng tiền với Đ, N, M, C, N, H. L tham gia 03 - 04 ván, mỗi ván đặt số tiền 100.000 đồng - 150.000 đồng. Đến lúc bị Công an bắt quả tang, L thua 500.000 đồng, còn lại 150.000 đồng bị thu giữ trên người.

- Nguyễn Văn N: Khoảng 12 giờ ngày 01/8/2021, N điều khiển xe đạp điện và mang theo số tiền 200.000 đồng với mục đích đi mua gà nhưng không mua được. Trên đường về nhà, N thấy có đánh bạc nên vào tham gia. N sử dụng số tiền 200.000 đồng vào việc đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền với L, Đ, M, C, N, H. N tham gia chơi 01 ván, đặt số tiền 50.000 đồng. Cùng lúc đó, Công an ập vào bắt quả tang, N cầm theo 200.000 đồng bỏ chạy, sau đó đến Công an xã khai nhận và giao nộp lại 200.000 đồng.

- Nguyễn Văn M: Khoảng 13 giờ ngày 01/8/2021, M nhờ bạn chở đến nhà Dương Minh C chơi. Khi gọi điện cho C thì biết C đang ở khu vực lô cao su thuộc ấp B, xã T. M đến nơi thấy C đang đánh bạc, M vào tham gia, M sử dụng số tiền 200.000 đồng vào việc đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền với L, Đ, N, C, N, H. M chơi 03 ván, mỗi ván đặt số tiền 20.000 đồng - 30.000 đồng. Khi bị Công an bắt quả tang, M thua 80.000 đồng, còn lại 120.000 đồng, M cầm theo bỏ chạy, sau đó đến công an xã trình diện và giao nộp lại 120.000 đồng.

- Dương Minh C: Ngày 01/8/2021, C đến lô cao su ở Nông trường cao su T để nhổ nấm, đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì thấy nhiều người đang đánh bạc. C sử dụng số tiền 160.000 đồng, đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền với L, Đ, N, M, N, H. C tham gia 03 ván, mỗi ván đặt số tiền 30.000 đồng - 40.000 đồng. Khi bị Công an bắt quả tang, C thua 60.000 đồng, còn lại 100.000 đồng, C cầm theo bỏ chạy, sau đó đến Công an xã khai nhận và giao nộp lại 100.000 đồng.

- Nguyễn Như N: Khoảng 13 giờ ngày 01/8/2021, N đi bộ đến địa điểm đánh bạc. Khi đi, mang theo số tiền 600.000 đồng để sử dụng vào việc đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền với L, Đ, N, M, C, H. N tham gia 05 - 06 ván, mỗi ván đặt số tiền 50.000 đồng. Khi bị Công an bắt quả tang thì N thua 150.000 đồng, còn lại 450.000 đồng N cầm theo bỏ chạy, sau đó đến Công an xã khai nhận và giao nộp lại 450.000 đồng.

- Trương Văn H: Khoảng 13 giờ ngày 01/8/2021, H điều khiển xe mô tô biển số 61H1-078.54 đến nhà người tên H1 để đòi nợ nhưng không gặp. Trên đường đi về, H thấy có đánh bạc nên vào tham gia. H sử dụng số tiền 100.000 đồng chơi đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền với L, Đ, N, M, C, N. H chơi 03 ván, mỗi ván đặt số tiền 50.000 đồng. Đến lúc bị Công an bắt quả tang thì H thua 50.000 đồng, còn lại 50.000 đồng, H cầm theo bỏ chạy, sau đó đến Công an xã khai nhận và giao nộp lại 50.000 đồng.

Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc trái phép là 2.510.000 đồng. Tuy nhiên, Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát xác định tổng số tiền có căn cứ chứng minh bị cáo Đ và các đối tượng L, C, H, N, N và M sử dụng đánh bạc trái phép là 1.220.000 đồng (số tiền nộp lại cho cơ quan điều tra).

Hành vi đánh bạc của Đ, L, C, H, N, N và M với tổng số tiền 2.510.000 đồng không đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do Đ đã bị kết án về tội “Đánh bạc”, chưa được xóa án tích nên hành vi đánh bạc của được đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện D đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng L, C, H, N, N và M về hành vi đánh bạc trái phép là phù hợp.

Tại Cáo trạng số 35/CTr-VKSDT-HS ngày 04/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quan điểm và quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị:

- Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

- Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 xe đạp điện màu đen của Nguyễn Văn N, đây là phương tiện N sử dụng để đi lại hàng ngày, không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại N.

+ Tiền Việt Nam 1.220.000 đồng (thu giữ của L 150.000 đồng, Đ 150.000 đồng, N 200.000 đồng, M 120.000 đồng, C 100.000 đồng, N 450.000 đồng, H 50.000 đồng), bị cáo Đ và các đối tượng N, C, M, N và H xác định tiền dùng vào việc đánh bạc nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 07 đôi dép các loại, xét thấy không có giá trị đáng kể và 02 tấm bạt màu xám có kích thước 80 cm x 2,97 m và 78 cm x 2,97 m, không xác định là tài sản của ai nhưng bị cáo Đ và các đối tượng sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, bị cáo Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt với lý do có cha là ông Nguyễn Văn Đ1 là người được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, có con nhỏ mới sinh ngày 30/5/2022 để bị cáo có điều kiện cải tạo làm người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Ngoài ra, bị cáo Đ không có ý kiến tranh luận gì khác.

Những người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án gồm các ông N, C, M, N và H không có ý kiến tranh luận, thống nhất với Cáo trạng truy tố đối với Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã Đ tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Dầu Tiếng và Điều tra viên, Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa không bị ai khiếu nại gì về việc tiến hành các hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ đối với vụ án nên toàn bộ hoạt động tố tụng, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, cụ thể: Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 01/8/2021, bị cáo Đ là nhà cái tham gia đánh bạc trái phép dưới hình thức lắc tài xỉu với các người chơi là Trần Minh L, Dương Minh C, Trương Văn H, Nguyễn Văn N, Nguyễn Như N và Nguyễn Văn M với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 2.510.000 đồng tại lô cao su số 16 Nông trường cao su T thuộc ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương; đến 13 giờ 45 phút cùng ngày thì bị Công an xã T, huyện D bắt quả tang Đ L còn lại đều chạy thoát. Lời khai nhận của bị cáo Đ cùng các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại phiên tòa là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do đó, Cáo trạng số 35/CTr-VKSDT-HS ngày 04/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Đ tuy đơn giản nhưng nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng nơi xảy ra vụ án, là hệ lụy kéo theo nhiều tệ nạn xã hội khác, làm cho quần chúng nhân dân mất lòng tin vào chính quyền khi để tệ nạn xã hội xảy ra tại địa phương mình quản lý. Ngoài ra thời điểm cuối tháng 7/2021, địa bàn huyện Dầu Tiếng bắt đầu áp dụng Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản của Cnh quyền địa phương về việc thực hiện biện pháp cấp bách về phòng, chống Covid – 19, yêu cầu mọi người dân ở yên tại nhà, không được ra đường nhưng bị cáo Đ vẫn tụ tập đông người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là thể hiện thái độ xem thường pháp luật.

[4] Xét chủ thể, động cơ và mục đích phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo Đ là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ năng lực để nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, thế nhưng các bị cáo bất chấp hậu quả để thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Thực hiện tội phạm với mục đích sát phạt nhau bằng tiền, nhằm thỏa mãn thoái hư tật xấu tham gia đánh bạc của mình.

[5] Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo thì bị cáo Đ tham gia đánh bạc với tổng số tiền 2.510.000 đồng không đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo Đ đã bị kết án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích nên hành vi đánh bạc của bị cáo Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

[6] Để bị cáo Đ thấy được sự nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà đặc biệt là tội phạm xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng nên cần phải xử lý nghiêm bằng hình phạt tù đối với bị cáo, từ đó có điều kiện giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân tốt sau này và cũng nhằm răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo Đ được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có cha là người được tặng thưởng “Huân chương kháng chiến hạng nhì”, có con nhỏ mới sinh ngày 30/5/2022 theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Đ không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định.

[8] Hình phạt bổ sung đối với bị cáo: Xét thấy bị cáo Đ qua quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải, nhận thức được sai phạm của mình và tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo không quá nghiệm trọng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có con nhỏ mới sinh nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

[9] Ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như mức hình phạt đề nghị đối với bị cáo Đ là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Hành vi đánh bạc của Trần Minh L, Dương Minh C, Trương Văn H, Nguyễn Văn N, Nguyễn Như N và Nguyễn Văn M với tổng số tiền 2.510.000 đồng không đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 của Bộ luật hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Dầu Tiếng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng Trần Minh L, Dương Minh C, Trương Văn H, Nguyễn Văn N, Nguyễn Như N và Nguyễn Văn M về hành vi đánh bạc trái phép là phù hợp.

[11] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ và cần xử lý các vật chứng như sau:

- Đối với 01 xe đạp điện màu đen của Nguyễn Văn N, đây là phương tiện N sử dụng để đi lại hàng ngày, không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại N.

- Tiền Việt Nam 1.220.000 đồng (thu giữ của L 150.000 đồng, Đ 150.000 đồng, N 200.000 đồng, M 120.000 đồng, C 100.000 đồng, N 450.000 đồng, H 50.000 đồng), bị cáo Đ và các đối tượng N, C, M, N và H xác định tiền dùng vào việc đánh bạc nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 07 đôi dép các loại, xét thấy không có giá trị đáng kể và 02 tấm bạt màu xám có kích thước 80 cm x 2,97 m và 78 cm x 2,97 m, không xác định là tài sản của ai nhưng bị cáo Đ và các đối tượng sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy.

[12] Bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1, khoản 4 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 46, Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Đánh bạc”.

I. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 08 (tám) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

II. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

1. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 1.220.000 đồng (một triệu hai trăm hai mươi nghìn đồng) là số tiền sử dụng vào việc phạm tội.

2. Tịch thu tiêu hủy đối với 07 (bảy) đôi dép các loại và 02 (hai) tấm bạt màu xám có kích thước 80 cm x 2,97 m và 78 cm x 2,97 m do bị cáo Đ và các đối tượng sử dụng vào việc phạm tội.

3. Trả lại cho ông Nguyễn Văn N 01 (một) xe đạp điện màu đen (tình trạng vật chứng tại thời điểm giao nhận đã qua sử dụng, bể đèn, bể mặt nạ, không gương chiếu hậu) do ông N không sử dụng vào việc phạm tội.

(Số tiền trên thể hiện tại Biên lai thu tiền số: AA/2021/0004268 ngày 26/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng và biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng).

III. Án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

IV. Quyền kháng cáo:

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 16/6/2022)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 46/2022/HS-ST

Số hiệu:46/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về