Bản án về tội đánh bạc số 30/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04/5/2022 tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2022/TLST-HS ngày 06/4/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2022/QĐST-HS ngày 22/4/2022 đối với các bị cáo:

1, Họ và tên: Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1989; tại: Thành phố Cần Thơ; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Ấp Phú L, xã Hòa H, huyện Xuyên M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 2/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; tiền án: Ngày 13/02/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 10 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, đến ngày 30/8/2019 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2021, bị cáo có mặt tại phiên toà.

2, Họ và tên: Phạm Văn Nh, sinh năm 1995; tại: Tỉnh Cà Mau; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H (đã chết) và bà Lê Thị K, sinh năm 1970; có vợ Mai Thị Hồng Tr, sinh năm 1995 và 02 con, con lớn sinh năm 2020, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên toà.

3, Họ và tên: Nguyễn Sa L, sinh năm 1987; tại: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 2/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hồng Gi, sinh năm 1960 và bà Lê Thị M (đã chết); có vợ Lưu Thị D, sinh năm 1995 và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên toà.

4, Họ và tên: Vũ Văn T, sinh năm 1989; tại: Tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn a, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Huy Q, sinh năm 1959 và bà Phạm Thị Á, sinh năm 1954; có vợ Phạm Thị Ng, sinh năm 1995 và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên toà.

5, Họ và tên: Nguyễn Đức Tr, sinh năm 1982; tại: Tỉnh Tiền Giang; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 4/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn X (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; có vợ Trần Thị H, sinh năm 1987 và 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên toà.

6, Họ và tên: Lưu Đình D, sinh năm 1988; tại: Tỉnh Bình Thuận; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Đình D, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1955; có vợ Đỗ Thị Thu H, sinh năm 1992 và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Dương Thị Ng; sinh năm 1987. Nơi cư trú: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.

Ông Lê Văn Th; sinh năm 1987. Nơi cư trú: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn T; sinh năm 1999. Nơi cư trú: Thôn 7, xã Ia L, huyện Chư p, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 21 giờ ngày 19/12/2021, Nguyễn Văn Ngh, Phạm Văn Nh, Vũ Văn T, Nguyễn Đức Tr, Nguyễn Sa L và Lưu Đình D, đang ngồi chơi tại nhà bà Dương Thị Ng, sinh năm 1987, trú tại thôn B, xã E, huyện H, thì Nh nảy sinh ý định đánh bạc dưới hình thức đánh bài xì lát thắng thua bằng tiền nên rủ mọi người chơi cùng thì tất cả đều đồng ý. Sau đó, L đi mua 01 bộ bài tú lơ khơ, còn Nh lấy 01 cái chăn trải xuống nền nhà và 01 nắp nhựa để kê bài. Khi tham gia đánh bạc Nh bỏ ra số tiền 3.370.000 đồng, Ngha bỏ ra 1.800.000 đồng, T bỏ ra 1.600.000 đồng, Tr bỏ ra 1.200.000 đồng, L bỏ ra 1.500.000 đồng, D bỏ ra 350.000 đồng để tham gia đánh bạc. Tất cả thống nhất hình thức đánh bài xì lát được thua bằng tiền như sau: Người cầm cái dùng bộ bài tú lơ khơ 52 quân chia cho mỗi người chơi 02 lá bài, các lá bài còn dư lại được để xuống chiếu bạc, kê lên nắp nhựa. Sau đó, những người chơi sẽ tùy ý bốc thêm bài từ số bài dưới chiếu bạc để đạt được tổng điểm từ các lá bài càng gần hoặc bằng 21 điểm, nhưng không được vượt quá 21 điểm. Ngoại trừ người cầm cái, người chơi được đặt cược một số tiền tùy ý trước mỗi ván chơi, thấp nhất là 20.000 đồng và cao nhất là 100.000 đồng. Nếu thắng thì người chơi nhận được số tiền tương đương đã đặt cược, nếu thua thì mất số tiền đã đặt cược cho người cầm cái. Sau khi chia bài, mỗi người chơi sẽ tùy vào điểm số của mình mà tùy chọn bốc thêm bài hoặc không bốc thêm bài, người cầm cái sẽ bốc bài cuối cùng. Cách tính điểm như sau: Các lá bài 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 thì điểm số tương ứng với con số đó. Các lá bài J, Q, K thì mỗi lá tính 10 điểm.

Lá bài Át (A) có thể tính 1, 10 hoặc 11 điểm. Tổng điểm là điểm của tất cả những lá bài trên tay cộng lại. Cách tính điểm: Trường hợp 1, với 02 lá bài đầu tiên, nếu có lá bài sau đây sẽ dừng luôn để hưởng lợi là xì bàng (02 lá AA), xì dách (01 lá A và thêm 01 lá trong các lá 10, J, Q, K). Nếu người cầm cái có bài như trên thì sẽ thắng hết những người chơi (ngoại trừ người chơi nào có bài bằng hoặc cao hơn). Trường hợp 2, bốc thêm bài: Sau khi tính điểm 02 lá bài, người chơi có quyền bốc thêm bài sao cho số điểm nằm trong khoảng từ 16 điểm đến 21 điểm. Các thuật ngữ: Non (bài dưới 16 điểm), đủ (bài từ 16 điểm đến 21 điểm), quá (bài lớn hơn 21 điểm). Khi bị quá thì người chơi không có quyền bốc tiếp. Vòng đánh: Bắt đầu từ bên phải của người cầm cái theo ngược chiều kim đồng hồ, từng người sẽ bốc bài đến khi dừng. Người chơi phải có số điểm từ 16 điểm trở lên trước khi người cầm cái kiểm bài, nếu không người chơi đó bị xử thua. Người cầm cái sẽ so bài với tất cả các người chơi, nếu người cầm cái hơn điểm của một người chơi nào đó thì sẽ được ăn tiền cược của người chơi đó, ngược lại sẽ phải trả số tiền bằng số tiền mà người chơi đặt cược, nếu số điểm bằng nhau thì hòa. Các trường hợp đặc biệt: Ngũ linh (05 lá bài có tổng điểm nhỏ hơn 21) thì người chơi thắng tuyệt đối, trường hợp cả hai bên đều ngũ linh thì ai ít điểm hơn sẽ thắng. Quá 21 điểm thì hai bên hòa. Quy định mỗi người cầm cái 03 ván, nếu người chơi nào đến lượt mà không muốn cầm cái thì nhường cái cho người khác; quá trình đánh bạc không thu tiền xâu. Đến 23 giờ 45 phút cùng ngày khi tất cả đang sát phạt thắng thua thì bị Công an xã E, huyện H phát hiện bắt quả tang, thu giữ số tiền đánh bạc là 9.820.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ bằng giấy màu xanh, 52 quân đã qua sử dụng; 01 cái chăn màu hồng kích thước 2m x 1,6m; 01 nắp nhựa màu xanh, hình tròn, đường kính 11,5cm, cao 02cm.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung tại bản cáo trạng số 22/CT- VKS, ngày 06/4/2022 truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Ngh, Phạm Văn Nh, Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr, Lưu Đình D về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ngh mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

-Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Nh mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp hai lần mức án đã tuyên.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn T mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp hai lần mức án đã tuyên.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Sa L mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp hai lần mức án đã tuyên.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức Tr mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp hai lần mức án đã tuyên.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Đình D mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng; đối với 01 cái chăn màu hồng và 01 nắp nhựa màu xanh, xác định chủ sở hữu là của bà Dương Thị Ngọc, tuy nhiên bà Ngọc từ chối nhận lại tài sản vì vậy cần tịch thu tiêu hủy.

Cần tịch thu sung công qũy Nhà nước số tiền 9.820.000 đồng.

Đối với căn phòng mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc thuộc quyền sở hữu của bà Dương Thị Ng, việc các bị cáo sử dụng căn phòng trên để đánh bạc bà Ng không biết nên không có căn cứ xử lý.

Các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đã biết được việc làm của các bị cáo là sai trái, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xử cho các bị cáo mức án thấp nhất để các bị cáo có điều kiện làm người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quá trình điều tra, tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Khoảng 21 giờ ngày 19/12/2021, Phạm Văn Nh rủ Nguyễn Văn Ngh, Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr và Lưu Đình D đánh bạc thì tất cả đều đồng ý. Khi tham gia đánh bạc Ngh bỏ ra 1.800.000 đồng, Nh bỏ ra 3.370.000 đồng, T bỏ ra 1.600.000 đồng, L bỏ ra 1.500.000 đồng, Tr bỏ ra 1.200.000 đồng và D bỏ ra 350.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày khi Ngh, Nh, T, L, Tr và D đang sát phạt thắng thua thì bị Công an xã Ea H’Leo bắt quả tang.

Tang vật thu giữ tại chiếu bạc gồm: 9.820.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng; 01 cái chăn màu hồng và 01 nắp nhựa màu xanh.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết được việc đánh bạc là vi phạm pháp luật. Thế nhưng, do ý thức coi thường pháp luật nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, quyết định truy tố của viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo đối với các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại Điều luật này quy định:

“1, Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Hành vi của các bị cáo không những xâm phạm đến trật tự công cộng mà còn gây mất ổn định về an ninh, trật tự tại địa phương, hành vi phạm tội của các bị cáo cũng là một trong những nguyên nhân gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, ngoài ra còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều tham gia thực hiện tội phạm với vai trò thực hành, tuy nhiên tính chất, hành vi, mức độ, vai trò tham gia phạm tội cũng như hậu quả mỗi bị cáo gây ra là khác nhau. Vì vậy, cần phân tích, đánh giá cụ thể hành vi của từng bị cáo tham gia vào việc phạm tội để việc quyết định hình phạt được chính xác.

Đối với Nguyễn Văn Ngh sau khi bị cáo Nh rủ rê bị cáo liền đồng ý và tham gia một cách tích cực, số tiền bị cáo bỏ ra đánh bạc nhiều hơn so với các bị cáo T, L, Tr và D. Năm 2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 10 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, đến ngày 30/8/2019 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích. Vì vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian.

Đối với Phạm Văn Nh là người rủ rê các bị cáo khác tham gia đánh bạc, số tiền bị cáo bỏ ra đánh bạc nhiều hơn so với các khác. Vì vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt cao hơn so với các bị cáo T, L, Trí và D.

Đối với Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr và Lưu Đình D sau khi được bị cáo Nh rủ rê, các bị cáo liền đồng ý và tham gia một cách tích cực. Bị cáo T, L là người bỏ ra số tiền nhiều hơn so với các bị cáo Tr, D. Vì vậy, cần áp dụng đối với các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tham gia phạm tội của các bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn Ngh, Phạm Văn Nh, Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr và Lưu Đình D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đều có điều kiện hoàn cảnh kinh tế khó khăn; các bị cáo Phạm Văn Nh, Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr và Lưu Đình D có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy các bị cáo Nh, T, L, Tr và D có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các bị cáo là người có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo mà chỉ cần giao các bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng trừng trị, răn đe đối với các bị cáo.

[3]. Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng;

01 cái chăn màu hồng và 01 nắp nhựa màu xanh.

Cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 9.820.000 đồng.

Đối với căn phòng mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc thuộc quyền sở hữu của bà Dương Thị Ng, việc các bị cáo sử dụng căn phòng trên để đánh bạc bà Ng không biết nên không có căn cứ xử lý.

[4]. Về án phí: Cần buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố : Các bị cáo Nguyễn Văn Ngh, Phạm Văn Nh, Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr và Lưu Đình D phạm tội “Đánh bạc”.

-Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ngh 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 20/12/2021.

-Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Nh 01 (một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm, thời hạn tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn T 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Sa L 07 (bảy) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 02 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức Tr 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm, thời hạn tính từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Phạm Văn Nh, Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr cho Ủy ban nhân dân xã E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật này.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

-Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Đình D 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đăk Lăk, nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lưu Đình D cho Ủy ban nhân dân xã E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đăk Lăk giám sát, giáo dục, gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp người bị cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.

Bị cáo bị xử phạt cải tạo không giam giữ là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng; 01 cái chăn màu hồng và 01 nắp nhựa màu xanh.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 9.820.000 đồng.

Đối với căn phòng mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc thuộc quyền sở hữu của bà Dương Thị Ng, việc các bị cáo sử dụng căn phòng trên để đánh bạc bà Ng không biết nên không có căn cứ xử lý.

(Vật chứng được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 26/4/2022 giữa Công an huyện Ea H’Leo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo).

Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Văn Ngh, Phạm Văn Nh, Vũ Văn T, Nguyễn Sa L, Nguyễn Đức Tr và Lưu Đình D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về