Bản án về tội đánh bạc số 28/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2022/TLST - HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST - HS ngày 27 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

MẠ VĂN T; sinh ngày 05/8/1983; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở hiện nay: Thôn LA, xã XQ, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn 11/12; bố đẻ: Mạ Văn K, sinh năm 1962; mẹ đẻ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1963; vợ: Ma Thị B, sinh năm 1986; con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2010; anh chị em: Có 03 người, bị cáo là thứ nhất; tiền án: Không; Tiền sự: 02 tiền sự:

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 56/QĐ-XPHC ngày 14/4/2021 của Công an huyện Chiêm Hóa, phạt tiền 1.500.000 đồng, về hành vi đánh bạc xảy ra ngày 25/02/2021 (Ngày 04/5/2021 T nhận được Quyết định và đã nộp phạt).

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 108/QĐ-XPHC ngày 28/4/2021 của Công an tỉnh Tuyên Quang, phạt tiền 1.500.000 đồng, về hành vi đánh bạc xảy ra ngày 21/02/2021 (ngày 28/01/2022 đã nộp phạt).

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Phùng Thị N, sinh năm 1979.

- Chị Ma Thị C, sinh năm 1985.

- Chị Hà Thị H, sinh năm 1981.

Cùng địa chỉ: Thôn LA, xã XQ, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, (cùng vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 17/01/2022, Mạ Văn T (có 02 tiền sự về hành vi đánh bạc) đến quán bán hàng tạp hóa của chị Hà Thị H, trú cùng thôn thì gặp Phùng Thị N, trú cùng thôn LA, xã XQ cũng có mặt tại đó. T biết N là người bán số lô, số đề trái phép nên bảo N đưa cho mình 01 mảnh giấy (loại giấy trắng không có dòng kẻ) sau đó T tự dùng bút bi viết vào mảnh giấy các cặp số lô điểm 37,73 x 10 điểm/cặp x 23.000đ/điểm (hai mươi ba nghìn đồng), ghi xong T trả mảnh giấy cho N cùng với số tiền 500.000đ (m trăm nghìn đồng), N cầm mảnh giấy và tiền rồi trả lại cho T số tiền 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng). Ngoài ra trong ngày 17/01/2022, N còn bán số lô, số đề trái phép cho 01 người đàn ông không quen biết và Ma Thị C, trú cùng thôn được tổng số tiền là 662.000đ, cụ thể: các số lô điểm 00, 11, 66, 32, 23, 24, 42 mỗi cặp số 02 điểm = 14 điểm x 23.000đ/01 điểm = 322.000đ, số lô xiên hai: 23 - 32 = 10.000đ, cặp số 24 - 42 = 10.000đ, các lô xiên ba: 00 - 11 - 66 = 10.000đ, cặp số 00 - 44 - 55 = 10.000đ; bán cho số đề ba càng 411 x 10.000đ và các cặp đề số 11, 40, 41 x 10.000đ/số; số lô điểm 00, 89 x 05 điểm x 23.000đ/01 điểm = 230.000đ; các cặp số lô xiên ba 89 - 66 - 00 = 20.000đ; 83 - 00 - 66 = 10.000đ. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày Tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa kiểm tra, phát hiện lập biên bản vi phạm hành chính đối với Phùng Thị N và thu giữ toàn bộ vật chứng. Tổng số tiền do N bán số lô, số đề trái phép mà có trong ngày 17/01/2022 là 1.122.000đ.

Tại cơ quan điều tra Phùng Thị N khai nhận: Đối với các số lô, số đề trái phép bán được trong ngày, N tổng hợp và chuyển cho một người đàn ông tên T, sinh năm 1968, nhà ở tổ VB, thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang để hưởng lợi do T chi trả. Việc trả thưởng cho người mua số lô, số đề trái phép được dựa trên kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào 18 giờ 30 phút cùng ngày; đối với số lô và lô xiên nếu các cặp số đã mua trùng với 02 số cuối của các giải, từ giải đặc biệt đến giải 7 thì người mua trúng thưởng; riêng số đề hai số và đề ba càng chỉ trùng với hai và ba (đề ba càng) số cuối của giải đặc biệt thì mới trúng thưởng.

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ: 02 (hai) mảnh giấy có kích thước 17cm x 12cm và 13cm x 6,5cm có viết chữ và số (được niêm phong lưu theo hồ sơ vụ án); số tiền 460.000đ (bn trăm sáu mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 27/CT-VKSCH ngày 15/4/2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa truy tố bị cáo Mạ Văn T về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Mạ Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

- Về hình phạt chính: Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Mạ Văn T từ 06 đến 08 tháng tù, hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Phạt tiền bị cáo từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ.

* Về vật chứng của vụ án: Lưu hồ sơ vụ án 02 (hai) mảnh giấy có kích thước 17cm x 12cm và 13cm x 6,5cm có viết chữ và số (được niêm phong lưu theo hồ sơ vụ án); Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 460.000đ (bn trăm sáu mươi nghìn đồng) của Mạ Văn T sử dụng vào việc đánh bạc.

Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Mạ Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi đánh bạc, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện Kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa xét thấy:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Mạ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 17/01/2022, Mạ Văn T (có 02 tiền sự về hành vi Đánh bạc), tiếp tục có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề trái phép, với tổng số tiền: 460.000đ (bn trăm sáu mươi nghìn đồng); đủ cơ sở xác định bị cáo Mạ Văn T đã phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự như kết luận của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến an toàn trật tự công cộng và gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây dư luận xấu trong nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, động cơ, mục đích nhằm thu lợi bất chính từ việc đánh bạc với hình thức ghi số lô trái phép. Bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính cùng về hành vi đánh bạc, nay lại tiếp tục phạm tội, cho thấy bị cáo là người coi thường pháp luật, ham chơi, lười lao động.

Về các tình tiết tăng nặng: Không có.

Về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có ông nội là Mạ Văn P được Nhà Nước tặng huân chương kháng chiến trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như phần đề nghị của Viện Kiểm sát là phù hợp theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật hình sự; nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội vì mục đích vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xét cần lưu hồ sơ vụ án 02 (hai) mảnh giấy có kích thước 17cm x 12cm và 13cm x 6,5cm có viết chữ và số (được niêm phong lưu theo hồ sơ vụ án); Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 460.000đ (bn trăm sáu mươi nghìn đồng) của Mạ Văn T sử dụng vào việc đánh bạc.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với hành vi đánh bạc của Phùng Thị N, Ma Thị C chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, N và C chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc và gá bạc nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã chuyển tài liệu đối với N và C cùng số tiền mặt 662.000đ đã thu giữ để Công an huyện Chiêm Hóa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với N và C là đúng quy định, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Đối với người đàn ông đã mua các số lô trái phép với Phùng Thị N không xác định được tên, tuổi, địa chỉ và người đàn ông tên T không xác định được địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét xử lý trong vụ án.

Đối với Hà Thị H do không biết N đến quán tạp hóa ngồi chơi lại sử dụng làm địa điểm để bán số lô, số đề trái phép cho khách nên không xem xét xử lý.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Mạ Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Mạ Văn T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Phạt tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Về vật chứng: Lưu hồ sơ vụ án 02 (hai) mảnh giấy có kích thước 17cm x 12cm và 13cm x 6,5cm có viết chữ và số (được niêm phong lưu theo hồ sơ vụ án); Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 460.000đ (bn trăm sáu mươi nghìn đồng) của Mạ Văn T sử dụng vào việc đánh bạc.

Tiền tịch thu sung ngân sách Nhà nước hiện được gửi tại tài khoản tạm gửi số 3591.0.1065091.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang được mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 11/5/2022). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

446
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về