Bản án về tội đánh bạc số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAKAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2022/TLST - HS ngày 18/5/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Tùng T, Sinh năm 1975, Bình Định; Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn K, sinh năm 1952; Con bà: Hồ Thị X, sinh năm 1954, cư trú tại thôn H, xã Đ, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có vợ là Giang Thị L, sinh năm 1982, hiện đã ly hôn; có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2009;

Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 24/11/2021, bị Công an thị trấn K, huyện E ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép, bằng hình thức phạt tiền, đã nộp phạt vào ngày 24/11/2021.

Bị cáo được tại ngoại và đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1970.

Nơi cư trú: TDP 1, thị trấn K, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).

2. bà Nguyễn Thị K, sinh năm: 1976 (có mặt).

3. bà Phạm Thị Đ, sinh năm:1963 (có mặt).

4. ông Đào Văn H, sinh năm: 1958 (vắng mặt)

Cùng cư trú tại: Thôn 8, xã Đ, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

5. bà Dương Thị Phương L, sinh năm: 1977.

Nơi cư trú: thôn 1, xã Đ, huyện E nh Đắk Lắk (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 02/01/2022, sau khi đi nhậu về thì Nguyễn Văn Th vào nhà bà Phạm Thị Đ (trú tại thôn 8, xã Đ) uống nước, nói chuyện. Sau đó, bà Nguyễn Thị K và Nguyễn Tùng T cũng sang nhà bà Đ chơi. Khoảng 20 giờ 30 cùng ngày, Th rủ Đ, K, T đánh bài ăn tiền bằng hình thức đánh phỏm thì cả ba cùng đồng ý tham gia. Đ lấy ra 02 bộ bài tú lơ khơ và trải 01 chăn mỏng trên nền gian bếp. Th, Đ, K, T thống nhất cách thức thắng thua khi đánh bài phỏm là người thua nhất sẽ thắng của người thua nhì số tiền 10.000 đồng, người thua thứ ba 20.000 đồng và người thua chót 30.000 đồng. Người nào bị bài cháy (không có phỏm) bị thua 40.000 đồng. Người có bài ù sẽ thắng của mỗi người còn lại 50.000 đồng, nếu bài ù tròn thì thắng gấp đôi. Khi đánh bài, nếu bị ăn 01 cây thì mất 10.000 đồng, bị ăn cây chốt hạ thì mất 40.000 đồng. Ngoài ra còn sử dụng 01 bộ bài khác để bốc con bài cá, nếu ai có lá bài cá lớn hơn hoặc nhiều hơn thì thắng của mỗi nhà còn lại 10.000 đồng/ 01 con bài cá. Khi bắt đầu đánh bài, T sử dụng số tiền 1.500.000 đồng, Th sử dụng số tiền 270.000 đồng, K sử dụng số tiền 400.000 đồng và Đ sử dụng số tiền 800.000 đồng để đánh bạc. Đến khoảng 21 giờ 40 cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Công an xã Đ phát hiện quả tang, thu giữ tổng số tiền 2.970.000 đồng cùng tang vật có liên quan. Tại thời điểm lực lượng Công an xã phát hiện quả tang, xác định tại vị trí của T có 1.400.000 đồng, vị trí của Đ có 520.000 đồng, vị trí của K có 420.000 đồng, vị trí của Th có 630.000 đồng.

Vật chứng thu giữ được gồm: 2.970.000 đồng (hai triệu chín trăm bảy mươi nghìn đồng); 01 chăn mỏng kích thước 1,6m x 1,6m; 02 bộ bài Tú lơ khơ 52 lá (đã qua sử dụng).

Cáo trạng số: 31/CT-VKS ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar đã truy tố bị cáo Nguyễn Tùng T về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1, Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Tùng T khai nhận: Ngày 24/11/2021 bị cáo bị Công an thị trấn K xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép. Vào khoảng 20 giờ ngày 02/01/2022, tại nhà bà Phạm Thị Đ thuộc thôn 8, xã Ea Đar, huyện Ea Kar, Bị cáo cùng Nguyễn Văn Th, Phạm Thị Đ và Nguyễn Thị K đã có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài phỏm. Đến khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Công an xã Đ phát hiện bắt quả tang cùng tang vật, tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc trái phép là 2.970.000đồng.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng. Đề nghị Hội Đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tùng T phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng T từ 06 đến 09 tháng tù.

Các biện pháp tư pháp:

Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.970.000 đồng (Hai triệu chín trăm bảy mươi ngìn đồng) là số tiền bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chăn mỏng kích thước 1,6m x 1,6m; 02 bộ bài Tú lơ khơ 52 lá (đã qua sử dụng).

Đối với địa điểm mà các đối tượng sử dụng đánh bạc, quá trình điều tra xác định: gian phòng bếp này là của vợ chồng ông Đào Văn H và bà Phạm Thị Đ làm chủ sở hữu; Hiện nay, ngôi nhà trên ông H và bà Đ đã bán cho bà Dương Thị Phương L. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar không có căn cứ để xử lý và truy thu theo quy định.

Phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan điều tra Công an huyện Ea Kar, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận:

Vào khoảng 20 giờ ngày 02/01/2022, tại nhà bà Phạm Thị Đ thuộc thôn 8, xã Đ, huyện E, Nguyễn Tùng T, cùng Nguyễn Văn Th, Phạm Thị Đ và Nguyễn Thị K đã có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài phỏm. Tổng số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 2.970.000đ. Mặc dù số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc dưới 5.000.000 đồng nhưng bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Do đó Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar truy tố bị cáo Nguyễn Tùng T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 321 Bộ luật Hình sự, quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực, hành vi để nhận biết được việc đánh bạc trái phép là vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn minh, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác. Tuy nhiên do ý thức xem thường pháp luật, muốn có tiền nhanh chóng mà không phải bỏ công sức lao động chính đáng, nên bị cáo đã bất chấp pháp luật để sát phạt lẫn nhau. Mặc dù vào ngày 24/11/2021 bị cáo bị Công an thị trấn E xử phạt về hành vi đánh bạc trái phép nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự cần được xem xét trong khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối với Nguyễn Văn Th, Phạm Thị Đ, Nguyễn Thị K là những người tham gia đánh bạc cùng Nguyễn Tùng T. Tuy nhiên, các đối tượng chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, số tiền sử dụng đánh bạc dưới 5.000.000đồng nên chưa đủ định lượng xử lý hình sự. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Th, Đ và K là đúng quy định.

[7] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Về xử lý vật chứng vụ án:

- Đối với số tiền 2.970.000 đồng (Hai triệu chín trăm bảy mươi ngàn đồng) thu giữ tại chiếu bạc, đây là số tiền bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 chăn mỏng kích thước 1,6m x 1,6m; 02 bộ bài Tú lơ khơ 52 lá (đã qua sử dụng). Đây là công cụ bị cáo dùng để phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với địa điểm mà các đối tượng sử dụng đánh bạc, quá trình điều tra xác định:

gian phòng bếp này là của vợ chồng ông Đào Văn H và bà Phạm Thị Đ làm chủ sở hữu; Hiện nay, ngôi nhà trên ông H và bà Đ đã bán cho bà Dương Thị Phương L nên Cơ quan Điều tra Công an huyện Ea Kar không tiến hành định giá để xử lý là phù hợp.

[8] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar đề nghị về mức hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với các bị cáo là phù hợp nên cần được chấp nhận.

 [9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tùng T phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; đểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng T 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.970.000 đồng (Hai triệu chín trăm bảy mươi ngàn đông) là số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chăn mỏng kích thước 1,6m x 1,6m; 02 bộ bài Tú lơ khơ 52 lá (Tiền và vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/5/2022, giữa Công an huyện Ea Kar và chi cục thi hành án dân sự huyện Ea Kar).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016. Buộc bị cáo Nguyễn Tùng T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Đ và bà Nguyễn Thị K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Th, ông Đ Văn H và bà Dương Thị Phương L vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về