Bản án về tội đánh bạc số 270/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 270/2022/HS-ST NGÀY 23/11/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 11 năm 2022, tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 256/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 276/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 40A/2022/QĐST-HPT ngày 18/11/2022 đối với:

Bị cáo LTHB – Sinh năm: 1966; nơi thường trú: Không có; chỗ ở hiện tại: Phòng 5Đ1 khu TT Lâm nghiệp, phường Q, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Họ và tên Cha: Lê Văn Đ (Đã chết). Họ và tên Mẹ: HTL (Đã chết). Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ hai; CH: Không; Con: Có 01 con sinh năm 1993; Tiền án, tiền sự: 01 tiền án: Ngày 14/9/1999, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Môi giới mại dâm (Chưa xóa án tích). Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h15’ ngày 09/11/2021, tại khu vực trước số 92 phố Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an phường Thanh Nhàn kiểm tra hành chính đối với ĐVH (sinh năm: 1973; HKTT và chỗ ở: Phòng 203 D14A -TT 8/3, phường M, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) phát hiện và thu giữ của H 02 (hai) tích kê ghi số lô, số đề như sau:

- Xiên quay 4: Ghi số 010 và 121 với giá tiền là 100.000đ/01 cặp, tổng cộng có 11 cặp lô xiên trong đó có (06 cặp xiên 2 là: 01-10; 01-12; 01-21; 12- 21; 10-12; 10-21); (04 cặp xiên 3 là: 01-10-12; 01-10-21; 12-21-01; 12-21-10); và 01 cặp xiên 4 là: 01-10-21-12.

- Số đề: Ghi số 01-10-21-12-11 với giá 40.000đ/01 số. Tổng số tiền đánh bạc của Hải là 1.300.000đ.

Tại trụ sở Công an phường Thanh Nhàn, ĐVH khai mua số lô, đề trên của LTHB tại khu vực cổng Công viên tuổi trẻ Thủ đô, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng. Tiến hành dẫn giải Hải đến trước cổng Công viên tuổi trẻ Thủ đô, H đã nhận ra đối tượng LTHB là người bán số lô, số đề cho H, do đó, Công an phường Thanh Nhàn đã tiến hành kiểm tra đối với B và phát hiện, thu giữ của B:

- 01 (một) quyển sổ tay (loại sổ nhật ký) có kích thước khoảng 10x15cm, trong sổ có 03 trang giấy ghi nhiều số lô, số đề trong ngày 09/11/2021;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 PRO, màu đen, có số IMEI1: 353317097211834; Số IMEI2: 353318097211832 (kiểm tra điện thoại phát hiện có 02 tin nhắn Zalo chuyển số lô đề cho Zalo “E Bich” và 01 tin nhắn của “H tít” số điện thoại 094155xxxx nhắn mua số đề với bị can B) - Số tiền 13.310.000đ (Mười ba triệu ba trăm mười nghìn đồng).

Ngày 14/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 870, trưng cầu giám định Chữ viết, chữ số trên 02 tờ tích kê ghi số lô, đề và chữ số, chữ viết trên 03 trang trong quyển sổ thu giữ của LTHB. Tại Bản kết luận giám định số 9383/KL- KTHS ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chữ viết, chữ số trên 02 tờ tích kê ghi số lô, đề và chữ số, chữ viết trên 03 trang trong quyển sổ thu giữ của LTHB với chữ viết, chữ số đứng tên LTHB trên các mẫu so sánh là chữ do cùng một người viết ra.

Quá trình điều tra, LTHB khai nhận: B làm nghề bán nước tại trước cổng Công viên Tuổi trẻ Thủ đô. Khoảng đầu tháng 11/2021, có một người phụ nữ tự giới thiệu tên B đến uống nước và hỏi B có ghi thuê số lô, đề cho B không. Do kinh tế khó khăn và muốn kiếm thêm thu nhập nên B đồng ý với B về việc bán số lô, đề như sau:

B trực tiếp ghi số lô, đề cho khách, sau đó tổng hợp các số lô, đề khách đánh trong ngày rồi chuyển bảng cho B trước 18h10’ hàng ngày qua tin nhắn Zalo. Ngày hôm sau, B sẽ đến cổng Công viên Tuổi trẻ để thanh toán tiền thắng thua lô, đề cho B. B thỏa thuận với B sẽ nhận số lô, đề do B chuyển với giá cụ thể như sau: Đề thu 75% tiền khách đánh, tỉ lệ trúng 1 ăn 70 lần tiền cược; Lô thu 21.800đ/1 điểm, tỷ lệ trúng là 1 điểm ăn 80.000đ; Lô xiên thu 65% tiền khách đánh, tỷ lệ trúng là: lô xiên 2 tỉ lệ 1 ăn 10 lần, Lô xiên quay 3 tỉ lệ 1 ăn 70 lần, Lô xiên quay 4 tỉ lệ 1 ăn 320 lần.

Để hưởng lợi, B thu tiền của khách đánh lô, đề cao hơn tỷ lệ của B đưa ra, cụ thể như sau: Đề thu 80% tiền khách đánh (hưởng lợi 5%); Lô xiên thu 70% tiền khách đánh (hưởng lợi 5%), Lô thu 22.000đ/1điểm (hưởng lợi 200đ/1 điểm). Khi bán số lô, đề, B sẽ ghi số lô, đề khách mua vào tờ tích kê rồi đưa tờ tích kê cho khách giữ, sau đó B ghi số lô, đề bán được vào một quyển sổ tay của B và sử dụng số điện thoại 032855xxxx của B nhắn tin những số lô, đề bán được cho khách trong ngày chuyển cho B qua tài khoản Zalo “E B”. Sau khi được B xác nhận qua tin nhắn Zalo thì B sẽ xóa hết tin nhắn với B đề nhằm xóa dấu vết và tránh bị phát hiện.

Tiến hành kiểm tra sổ tay ghi lô đề của B ngày 09/11/2021, thể hiện B đã bán số lô đề cho khách rồi tập hợp vào 03 trang giấy trong quyển sổ tay như sau:

- Trang thứ nhất gồm:

+Sốđề:28x120.000đ;(38,18,06,24,42,37,61,30,54,38,97,18)x36.000đ;99x210.000đ;(01,10,09,9) x60.000đ; 00x120.000đ; (18,81)x84.000đ; (03,53)x30.000đ; (01,10,12,21,11)x40.000đ. Tổng số tiền đề ở trang thứ nhất là 1.550.000 đồng. + Số lô: 99x25đ; (26,95)x50đ. Tổng số lô tại trang thứ nhất là 125 điểm x 22.000đ = 2.750.000 đồng.

+ Lô xiên quay 4: (010,121)x100.000đ bao gồm 11 cặp lô xiên cụ thể là 06 cặp xiên 2 gồm (01-10; 01-12, 01-21, 12-21, 10-12, 10-21); (04 cặp xiên 3 cụ thể: 01-10-12; 01-10-21; 12-21-01; 12-21-10); (01 cặp xiên 4 cụ thể: 01-10- 21-12); và (363,595)x50.000 bao gồm 11 cặp lô xiên cụ thể là 06 cặp xiên 2 gồm (36-63; 36 -59; 36-95; 63-59; 63-95; 59-95); (04 cặp xiên 3 cụ thể: 36-63- 59; 36-63-95; 59-95-36; 59-95-63); (01 cặp xiên 4 cụ thể: 36-63-59-95). Tổng số tiền xiên quay 4 tại trang thứ nhất là 1.650.000 đồng.

- Trang thứ hai gồm:

+ Số đề: (17,38)x120.000đ; (71,83)x60.000đ; (63,88)x24.000đ; 66x12.000đ.

Tổng tiền đề ở trang thứ 2 là 420.000 đồng.

+ Số lô: 95x40đ; 59x10đ; (79,97)x20đ; (17,38)x12đ; (12,21)x20đ; 63x2đ.

Tổng số lô tại trang thứ hai là 156 điểm x 22.000đ = 3.432.000 đồng.

+ Lô xiên quay 4: (686,595)x100.000đ bao gồm 11 cặp lô xiên cụ thể là 06 cặp xiên 2 gồm (68-86; 68-59, 68-95, 59-95, 86-59, 86-95); (04 cặp xiên 3 cụ thể: 68-86-59; 68-86-95; 59-95-68; 59-95-86); (01 cặp xiên 4 cụ thể: 68-86- 59-95). Tổng số tiền xiên quay 4 tại trang thứ hai là 1.100.000 đồng.

- Trang thứ ba gồm:

+ Số đề: Bộ (55,99)x60.000đ gồm 08 số đề là (55,00,05,50,99,44,49,94); 22x60.000đ; (05,50,16,61)x30.000đ; (38,83,01,10,56,65,29,92,47,74)x10.000đ.

Tổng tiền đề ở trang thứ 3 là 760.000 đồng.

+ Số lô: (03,30,89,98,63)x10đ. Tổng số lô tại trang thứ ba là 50 điểm x 22.000 đồng = 1.100.000 đồng.

Tổng số tiền lô, đề trong 03 tờ giấy bị can B viết trong quyển sổ tay là:

2.730.000đ tiền đề; 7.282.000đ tiền lô và 2.750.000đ tiền lô xiên quay 4. Tổng cộng số tiền lô, đề, lô xiên trong 03 tờ giấy trong sổ tay của B là 12.762.000 đồng.

Ngoài những số lô, đề đã được B ghi vào sổ tay ở trên, ngày 09/11/2021, B còn nhắn 02 tin nhắn chứa nội dung đánh lô đề qua Zalo cho B và đã được B xác nhận như sau:

- Lô: 26x30đ; 99x5đ; (95,17,38)x50đ; 95x5đ; 17x30đ; 38x30đ; 95x20đ. Tổng số lô trong tin nhắn B nhắn qua Zalo cho B là 270 điểm x 22.000 đồng = 5.940.000 đồng.

- Xiên quay 4: (363,595)x50.000đ bao gồm 11 cặp lô xiên cụ thể là 06 cặp xiên 2 gồm (36-63; 36-59, 36-95, 59-95, 63-59, 63-95); (04 cặp xiên 3 cụ thể: 36-63-59; 36-63-95; 59-95-36; 59-95-63); (01 cặp xiên 4 cụ thể: 36-63-59- 95). Tổng số tiền xiên quay 4 B nhắn qua Zalo cho B là 550.000 đồng.

- Đề: (16,61)x10.000đ; 22x40.000đ; (38,83)x12.000đ; 71x40.000đ; 83x60.000đ; 88x10.000đ; 28x100.000đ; 38x30.000đ; (18,06,24,42)x30.000đ; (37,62,61)x16.000đ. Tổng số tiền đề B nhắn qua Zalo cho B là 492.000 đồng.

Tổng số tiền lô, đề, xiên quay trong tin nhắn zalo mà B đã nhắn cho B là 6.982.000 đồng. Như vậy, tổng cộng số tiền lô đề B bán được trong ngày 09/11/2021 là: 12.762.000 đồng + 6.982.000 đồng = 19.744.000 đồng.

Trong đó, B được hưởng lợi số tiền là 446.300 đồng (gồm: hưởng lợi 5% của 3.222.000 đồng tiền đề = 161.100 đồng; 200 đồng x 601 điểm lô = 120.200 đồng; 5% của 3.300.000 đồng tiền xiên quay 4 = 165.000 đồng).

Đối với Đỗ VH có hành vi đánh bạc khi mua số lô đề của B vào ngày 09/11/2021 với số tiền là 1.300.000 đồng, chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên ngày 28/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định xử phạt hành chính số 202 đối với ĐVH về hành vi đánh bạc trái phép quy định tại khoản 1, Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 với mức phạt tiền là: 350.000 đồng.

Đối với người đàn ông tên H “Tít” sử dụng số điện thoại 094155xxxx nhắn tin mua số đề của B vào ngày 09/11/2021 với tổng số tiền đánh bạc là 280.000 đồng. Qua xác minh, chủ thuê bao của số điện thoại: 094155xxxx là ông Nguyễn Văn H; sinh năm: 1959; HKTT, chỗ ở: Xóm 8, thôn T, xã Minh Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông Nguyễn Văn H cho biết ông sinh ra lớn lên và làm ruộng tại Thái Bình. Ông H cam đoan không đăng ký, sử dụng số điện thoại 094155xxxx, và không biết bị can Lê Thị Hoài B là ai. Tại cơ quan điều tra, B khai không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể của H nên không có căn cứ để xử lý đối với người đàn ông tên H.

Đối với người phụ nữ tên B - là người nhận số lô, đề của bị can B: Do B khai không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ của B, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đối với các khách vãng lai tham gia đánh bạc dưới hình thức mua số lô, đề của B vào ngày 09/11/2021, do B khai không biết rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý.

Đối với số tiền 13.310.000 đồng mà Cơ quan Công an đã thu giữ của B: B khai nhận trong đó có 7.300.000đ là tiền cá nhân của B mang theo khi bán số lô đề, không liên quan đến việc bán số lô, đề. Số tiền 6.010.000 đồng còn lại là tiền bị can B bán lô, đề cho khách vào ngày 09/11/2021 thu được. Ngoài ra số tiền bán lô, đề còn lại khách còn nợ B chưa trả hết.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 PRO, màu đen, có số IMEI1: 353317097211834; Số IMEI2: 353318097211832 mà Cơ quan Công an đã thu giữ xác định là chiếc điện thoại B sử dụng để ghi số lô, đề. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng theo quy định pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 231/CT-VKS-HS ngày 19/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố Lê Thị Hoài B về tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Hoài B giữ nguyên lời khai như tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Lê Thị Hoài B và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Thị Hoài B với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù; Hình phạt bổ sung: không áp dụng; Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu sung quỹ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 PRO, màu đen, có số IMEI1: 353317097211834; số IMEI2: 353318097211832 do xác định là tang vật B sử dụng để ghi số lô, đề. Đối với số tiền 13.310.000đ (Mười ba triệu ba trăm mười nghìn đồng), B khai nhận trong đó có 7.300.000đ là tiền cá nhân của B mang theo khi bán số lô đề, không liên quan đến việc bán số lô, đề, do vậy đề nghị trả cho bị cáo số tiền 7.300.000 đồng. Số tiền 6.010.000 đồng còn lại là tiền bị cáo B bán lô, đề cho khách vào ngày 09/11/2021 thu được nên đề nghị tịch thu sung công quỹ số tiền này. Đối với số tiền 446.3000 đồng mà B khai ngày 09/11/2021 đã bán số lô, đề cho khách với tổng số tiền đánh bạc là 19.744.000 đồng, hưởng lợi 446.300 đồng: Xét thấy B chưa được thanh toán tiền bán lô đề với người phụ nữ tên “B” thì bị Cơ quan Công an bắt giữ nên thực tế B chưa được hưởng lợi số tiền này. Vì vậy đề nghị không tịch thu sung quỹ của bị cáo số tiền 446.300 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo LTHB không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo LTHB tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Ngày 09/11/2021, tại khu vực trước cổng Công viên Tuổi trẻ Thủ đô, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, LTHB đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô, đề cho khách với tổng số tiền đánh bạc là 19.744.000 đồng, hưởng lợi 446.300 đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Cờ bạc là tệ nạn đang phát triển mạnh trên cả nước gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, do vậy cần phải xét xử nghiêm minh đối với bị cáo. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi đánh bạc nhưng vẫn cố ý thực hiện. Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo bản Cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận LTHB phạm tội đánh bạc được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo LTHB có 01 tiền án vào năm 1999 về tội Môi giới mại dâm, chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xử lý hình sự nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm, sửa chữa cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để đảm bảo việc cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa chung đối với toàn xã hội. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 13.310.000 đồng mà Cơ quan Công an đã thu giữ của B: Trả lại cho bị cáo số tiền 7.300.000 đồng do bị cáo khai nhận là tiền cá nhân của bị cáo mang theo khi bán số lô đề, không liên quan đến việc bán số lô, đề. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 6.010.000 đồng còn lại là tiền bị cáo bán lô, đề cho khách vào ngày 09/11/2021 thu được.

Bị cáo không phải truy nộp số tiền 446.300 đồng (Bốn trăm bốn mươi sáu nghìn ba trăm đồng) do thực tế chưa được hưởng lợi số tiền này. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 PRO, màu đen, có số IMEI1: 353317097211834; số IMEI2: 353318097211832 mà Cơ quan Công an đã thu giữ xác định là chiếc điện thoại B sử dụng để ghi số lô, đề, cần được tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo LTHB phạm tội Đánh bạc.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Bị cáo LTHB 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 PRO, màu đen, có số IMEI1: 353317097211834; số IMEI2: 353318097211832. Vật chứng trên hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo biên bản giao nhận tang vật, vật chứng (số tang vật 291/21) giữa Công an quận Hai Bà Trưng với Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng;

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 6.010.000 đồng (Sáu triệu không trăm mười nghìn đồng) theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 21/10/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng;

- Trả lại bị cáo số tiền 7.300.000 đồng (Bảy triệu ba trăm nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo do không liên quan đến tội phạm. Bị cáo không phải truy nộp số tiền 446.300 đồng (Bốn trăm bốn mươi sáu nghìn ba trăm đồng) do thực tế chưa được hưởng lợi số tiền này.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo LTHB phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo LTHB có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội đánh bạc số 270/2022/HS-ST

Số hiệu:270/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về