Bản án về tội đánh bạc số 251/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 251/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20/8/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 182/2021/HSST ngày 28/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 213/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thanh A; Tên gọi khác: Dương; Giới tính: Nam; Sinh năm 1980, tại tỉnh Khánh Hoà; Nơi cư trú: Số xx đường P, phường C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Con ông: Nguyễn Q, sinh năm: 1953; Con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm: 1954. Bị cáo có vợ là Trần Thị Kim T, sinh năm: 1981; có 02 con, con lớn sinh năm: 2006, con nhỏ sinh năm: 2012. Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công An thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 12/4/2021, đến ngày 15/4/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Trần Ngọc H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1987, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Tổ xc , phường V, thành phố T, tỉnh Khánh Hòa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lái Xe. Con ông: Trần Ngọc H (Đã chết); Con bà: Phan Thị Kim T, sinh năm: 1963. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị C, sinh năm:

1985 và có 01 con, sinh năm: 2008. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Về nhân thân: Ngày 25/7/2014, bị Công An thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”.

Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công An thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 12/4/2021, đến ngày 15/4/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

3/ Họ và tên: Nguyễn Đình B; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1987, tại tỉnh Khánh Hoà. Nơi đăng ký HKTT: Thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa. Chỗ ở hiện nay: Số xvx đường Đ, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Thợ sửa xe ô tô. Con ông: Nguyễn Đình C, (Đã chết); Con bà: Huỳnh Thị H, sinh năm: 1967. Bị cáo có vợ là Võ Thị Thu V, sinh năm: 1989; Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm: 2012, con nhỏ sinh năm: 2018. Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công An thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 12/4/2021 đến ngày 15/4/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Lê Kim L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1979, tại tỉnh Khánh Hoà. Nơi cư trú: Số xx đường P, phường C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12. Nghề nghiệp: Thợ nhôm kính; Con ông: Lê Văn H, sinh năm: 1959. Con bà: Hồ Thị Kim L, sinh năm: 1959. Bị cáo có vợ là Trần Thị Kim Đ, sinh năm: 1984; Bị cáo có 03 người con, con lớn nhất sinh năm: 2011, con nhỏ nhất sinh năm: 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công An thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 12/4/2021 đến ngày 15/4/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Xuân H – sinh năm: 1978 (Vắng mặt). Địa chỉ: Khối xz, phường X, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông Nguyễn T – Sinh năm 1957 (Vắng mặt). Trú tại: Thôn z, xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 12/4/2021, Trần Ngọc H đi xe buýt từ xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đến tiệm sửa chữa ô tô của Nguyễn Thanh A (Địa chỉ: Số zxc đường K, phường X, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) chơi và uống cà phê cùng với A. Sau đó, lần lượt Nguyễn Đình B, Lê Kim L đến và cùng ngồi uống nước. Một lúc sau, Nguyễn Thanh A, Trần Ngọc H, Nguyễn Đình B, Lê Kim L rủ nhau đánh bạc dưới hình thức chơi bài Phỏm thắng thua bằng tiền tại tiệm sửa chữa ôtô của A và sử dụng 02 bộ bài Tây loại 52 lá, 01 bộ bàn, ghế đá, màu xanh trong gara làm công vụ ngồi đánh bạc.

Hình thức đánh bài phỏm: Các con bạc quy ước với nhau chơi cá già (quân K); sử dụng 02 bộ bài Tây làm công cụ đánh bạc. Mỗi bộ gồm 52 lá trong đó có 04 chất gồm: Bích (ký hiệu là ), Chuồn (ký hiệu là ), Rô (ký hiệu là), Cơ (ký hiệu là), mỗi chất trong bộ bài có 09 quân bài ghi số từ 2 đến 10 và 04 quân bài có các ký hiệu J (gọi là Bồi), Q (gọi là Đầm), K (gọi là Già), A (gọi là Xì). Các con bạc dùng 01 bộ để sau khi kết thúc ván bài lấy ra chia không phải đợi xếp bài; bộ bài còn lại được sử dụng chia thành 04 phần cho 04 người chơi. Trong đó, tụ của người chia bài được chia 10 quân bài, 03 tụ còn lại của người chơi được chia mỗi tụ 09 quân bài, số bài dư còn lại sau khi chia được úp giữa sòng để 04 người chơi bốc bài trong quá trình đánh. Người chia bài là người đánh đầu tiên và đánh một quân bài bất kì của mình qua cho người được chia bài tiếp theo, nếu người này “ăn” (tức là lấy quân bài này) để tạo thành Phỏm và đánh bất kì quân bài nào của mình cho người được chia kế tiếp, nếu người này không “ăn” (không lấy quân bài này) thì bốc 01 lá bài trên cùng của phần bài dư để ở giữa các người chơi và đánh một quân bài bất kì của mình sang người được chia kế tiếp, cứ như vậy xoay vòng cho hết 04 vòng. Sau đó, người chơi hạ phỏm và tính tổng điểm các quân bài còn lại so với nhau, điểm bài được tính bằng tổng số nút các lá bài còn lại mà không xếp được thành phỏm, các lá bài từ A đến quân 10 được tính tương ứng với số điểm từ 1 đến 10 điểm, các lá bài J, Q, K được tính tương ứng là 11, 12 và 13 điểm, ai ít điểm nhất là thắng cứ thế xếp theo thứ tự. Còn Phỏm từ ba quân bài trở lên liên tiếp nhau cùng chất như 678 cơ, JQK rô, 8 9 10 cơ…. hoặc ba quân giống nhau như 888, 999, KKK….; Ù thường là bài có 03 phỏm; Ù tròn là bài có 10 quân tạo thành Phỏm; Tứ quý cá là 04 quân già (quân K). Còn hình thức thắng thua trong một ván bài như sau: Ai về nhất thắng hết, về nhì thua số tiền 50.000 đồng, về ba thua số tiền 100.000 đồng, về chót thua số tiền 150.000 đồng, người nào bài “cháy” (tức là không có phỏm) thua số tiền 200.000đồng; người nào Ù thường (09 lá bài tạo thành phỏm) thắng 03 người còn lại thua mỗi người số tiền 250.000 đồng; Ù tròn (10 lá bài tạo thành phỏm) thắng 03 người còn lại thua mỗi người số tiền 500.000 đồng; bài ai có Tứ quý cá mỗi người còn lại thua số tiền 400.000 đồng, mỗi quân bài đánh ra bị ăn tính 50.000 đồng. Riêng quân bài cuối cùng của vòng thứ ba và quân bài của vòng thứ 4 khi đánh ra tính là quân bài chốt hạ, nếu bị ăn quân chốt hạ thì thua 200.000 đồng. Ai Ù thường, Ù tròn, hoặc có tứ quý cá phải bỏ ra số tiền 50.000 đồng, từ tiền đánh bạc để góp chung mua cơm, nước, thuốc lá cho cả nhóm sử dụng chung.

Sau khi thống nhất cách thức đánh, Nguyễn Thanh A, Trần Ngọc H, Nguyễn Đình B và Lê Kim L đánh bạc đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày thì nghỉ rồi lấy số tiền 300.000 đồng đã góp chung được để mua cơm, nước, thuốc lá, cùng nhau sử dụng. Sau khi ăn trưa xong, Lê Kim L còn lại số tiền 1.300.000 đồng trên người và có việc nên nghỉ đi công việc. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, A, H, B tiếp tục đánh bạc và quy định ai về nhì thua 100.000 đồng, (bỏ 50.000đồng) còn hình thức đánh bạc vẫn như quy định ban đầu. Một lúc sau, Lê Kim L rút từ cây ATM thêm số tiền 3.600.000 đồng, rồi quay lại và ngồi xem A, H, B đánh bạc, xem được khoảng 02 – 03 ván thì L lên võng gần đó ngủ. Đến 15 giờ 00 phút cùng ngày, khi A, B, H đang đánh bạc thì bị lực lượng Công An phát hiện bắt quả tang cùng tang vật tạm giữ trên sòng bạc số tiền: 7.750.000 đồng. Trong đó, tại tụ của A số tiền 750.000 đồng; tại tụ của H số tiền 3.100.000 đồng; tại tụ của B số tiền 3.750.000 đồng, tạm giữ trên người H số tiền 7.600.000 đồng; trên người B 2.100.000 đồng; trên người L số tiền 4.900.000 đồng (gồm 1.300.000 đồng tiền đánh bạc còn lại và 3.600.000 đồng L mới rút thêm); 150.000 đồng là tiền góp chung từ tiền đánh bạc; 02 (hai) bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng và 01 bộ bàn ghế đá, màu xanh là các công cụ sử dụng vào việc đánh bạc. Quá trình điều tra các bị cáo đã khai:

Nguyễn Thanh A khai nhận: Khi đánh bạc A không đem theo tiền để tham gia đánh bạc, nếu thắng bạc thì ăn còn nếu thua bạc thì A mượn tiền của mọi người đang tham gia để trả tiền thua bạc, tạm giữ tại tụ của A số tiền 750.000 đồng (đây là số tiền A thắng được khi chơi đánh bạc).

Trần Ngọc H khai nhận: Khi đánh bạc H đem theo số tiền khoảng 9.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc, khi bị bắt quả tang tạm giữ tại tụ của H số tiền 3.100.000 đồng và trên người của H số tiền 7.600.000đồng, là tiền H sử dụng đánh bạc. Quá trình đánh bạc H thắng bạc số tiền 1.700.000đồng.

Nguyễn Đình B khai nhận: Khi đánh bạc B đem theo số tiền 5.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc, khi bị bắt quả tang tạm giữ tại tụ của B số tiền 3.750.000 đồng, tạm giữ trên người B số tiền 2.100.000 đồng. Quá trình đánh bạc B thắng bạc số tiền 850.000 đồng.

Lê Kim L khai nhận: Khi đánh bạc L đem theo số tiền 5.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc, khi bị bắt quả tang tạm giữ trên người L số tiền 4.900.000 đồng (gồm 1.300.000 đồng tiền đánh bạc còn lại và 3.600.000 đồng L mới rút thêm, không sử dụng đánh bạc). Quá trình đánh bạc L thua bạc số tiền 3.700.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 219/CT-VKS-TP.BMT ngày 28/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh A, Trần Ngọc H, Nguyễn Đình B, Lê Kim L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Khi đánh bạc Nguyễn Thanh A không đem theo tiền để đánh bạc và khi bị bắt tạm giữ tại tụ của A số tiền 750.000 đồng là số tiền A thắng được. Trần Ngọc H đem theo số tiền 9.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc, khi bị bắt quả tang tạm giữ tại tụ số tiền 3.100.000 đồng và trên người số tiền 7.600.000đồng. Nguyễn Đình B đem theo số tiền 5.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc, khi bị bắt quả tang tạm giữ tại tụ số tiền 3.750.000 đồng và trên người số tiền 2.100.000 đồng. Lê Kim L đem theo số tiền 5.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc, khi bị bắt quả tang tạm giữ trên người số tiền 4.900.000 đồng (gồm 1.300.000 đồng tiền đánh bạc còn lại và 3.600.000 đồng L mới rút thêm). Quá trình đánh bạc, các bị cáo đã lấy 250.000 đồng trong số tiền đánh bạc để mua cơm và nước uống.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời đề nghị HĐXX:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh A mức án từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng.

Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Ngọc H mức án từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đình B mức án từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng.

Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Kim L mức án từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm.

Giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư các bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 18.750.000 đồng, 01 bộ bàn, ghế đá màu xanh.

Đề nghị Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng.

Đề nghị trả lại cho bị cáo Lê Kim L số tiền 3.600.000đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc xét xử và thi hành án.

Các bị cáo không bào chữa và tham gia tranh luận gì. Chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi tố tụng của Cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do vậy, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo, xét thấy: Vào ngày 12/4/2021, tại Gara ô tô Dương (Địa chỉ: số zxc đường K, phường X, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk), Nguyễn Thanh A, Trần Ngọc H, Nguyễn Đình B và Lê Kim L đã có hành vi cùng nhau đánh bạc dưới hình thức đánh bài Phỏm thắng thua bằng tiền với tổng số tiền là 19.000.000 đồng là phạm tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

…”.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng; đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Các bị cáo đều nhận thức được hành vi đánh bạc được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật. Song xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi các bị cáo gây ra thì mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong đấu tranh chống tội phạm.

Trong vụ án này, có nhiều bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội với tính chất, mức độ khác nhau do đó cần phân tích, đánh giá trên cơ sở phân hóa tội phạm để định cho từng bị cáo một mức hình phạt thì mới phù hợp.

Bị cáo Nguyễn Thanh A không mang theo tiền để đánh bạc xong bị cáo là người sử dụng địa điểm nơi bị cáo làm việc để làm nơi đánh bạc. Bị cáo Trần Ngọc H sử dụng 9.000.000 đồng và bị cáo Nguyễn Đình B sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc. Đồng thời, các bị cáo tham gia thực hiện hành vi tích cực hơn sơ với bị cáo Lê Kim L. Do đó, hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Thanh A, Trần Ngọc H và Nguyễn Đình B là bằng nhau và cao hơn so với bị cáo Lê Kim L là phù hợp.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

Các bị cáo là người có nhân thân tốt, tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nơi cư trú rõ ràng nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho tự cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục và tạo điều kiện để các bị cáo có cơ hội phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 18.750.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 bộ bàn, ghế đá màu xanh là tài sản của bị cáo Nguyễn Thanh A và được các bị cáo sử dụng để phục vụ đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước Đối với 02 bộ bài Tây 52 lá là công cụ được các bị cáo sử dụng đánh bạc, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 3.600.000 đồng tạm giữ của bị cáo Lê Kim L. Quá trình điều tra xác định bị cáo Lê Kim L không sử dụng vào mục đích đánh bạc nên cần trả lại cho bị cáo Lê Kim L nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

[5]Tình tiết khác: Đối với địa điểm đánh bạc là lô đất ở địa chỉ số zxc đường K, phường X, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do ông Nguyễn T là chủ sở hữu. Ông T cho anh Nguyễn Xuân H thuê, quản lý và sử dụng. Sau đó, anh H xây dựng nhà xưởng rồi cho Nguyễn Thanh A thuê lại để mở Gara sửa chữa xe ô tô. Việc các bị cáo A, B, L, H đánh bạc trong gara trên lô đất trên thì ông T, anh H không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không kê biên và không đề cập xử lý đối với ông T, anh H là phù hợp.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Thanh A, Trần Ngọc H, Lê Kim L và Nguyễn Đình B phạm tội “Đánh bạc”.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh A 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình B 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Lê Kim L 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Nguyễn Thanh A, Lê Kim L cho Ủy ban nhân dân phường C, Thành phố B, tỉnh Đăk Lăk để giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Nguyễn Đình B cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố B giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Trần Ngọc H cho Ủy ban nhân dân phường H, thành phố T, tỉnh Khánh Hòa giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[3] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 18.750.000 đồng, 01 bộ bàn ghế đá màu xanh gồm 01 bàn và 02 ghế.

Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Lê Kim L số tiền 3.600.000 đồng, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

(Đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/6/2021 giữa Công An Tp. Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự Tp.Buôn Ma Thuột. Hiện vật chứng đang được lữu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Tp.Buôn Ma Thuột)

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Thanh A, Trần Ngọc H, Nguyễn Đình B, Lê Kim L, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 251/2021/HS-ST

Số hiệu:251/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về