Bản án về tội đánh bạc số 241/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 241/2020/HS-PT NGÀY 26/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 147/2020/TLPT-HS ngày 27 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo Trần Thị D và các bị cáo khác; do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2020/HS-ST ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tr.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Thị D, sinh năm 1966 tại Đồng Nai; Giấy chứng minh nhân dân số: 27060865X do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 22-7-2014; nơi đăng ký thường trú: Ấp Tr, xã Th, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 5/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L (đã chết) và bà Hồ Thị B; có chồng tên Lê Xuân Đ và có 03 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt quả tang chuyển tạm giữ từ ngày 31/10/2019, đến ngày 03/11/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; hiện nay, không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; vắng mặt tại phiên tòa.

2. Lìu Sì T, sinh năm 1973 tại Đồng Nai; Giấy chứng minh nhân dân số: 27193806X do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 03-12-2004; nơi đăng ký thường trú: Ấp L, xã Th, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 0/12; giới tính: Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lìu Lỷ V (đã chết) và bà Lù A Nh; có vợ là Tằng Si M và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt quả tang chuyển tạm giữ từ ngày 31/10/2019, đến ngày 03/11/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; hiện nay, không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; có mặt tại phiên tòa.

3. Sằn A M, sinh năm 1981 tại Đồng Nai; Giấy chứng minh nhân dân số: 27137397X do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 15-3-2011; nơi đăng ký thường trú: Ấp T, xã B, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp Th, xã S, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 5/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sằn A Nh và bà Lưu A C (đã chết); có chồng tên Chướng Lý B và có 04 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt quả tang chuyển tạm giữ từ ngày 31/10/2019, đến ngày 03/11/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; hiện nay, không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; có mặt tại phiên tòa.

- Những người tham gia tố tụng khác:

Người bào chữa cho bị cáo Lìu Sì T và bị cáo Sằn A M: Ông Lê Nguyên Đ, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước; nơi làm việc: Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn B; địa chỉ liên lạc: BU, khu phố R, cư xá P, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

- Ngoài ra, vụ án còn có 05 bị cáo khác không có kháng cáo và không bị kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Khoảng 14 giờ ngày 31/10/2019, tại chợ T, thuộc ấp T, xã C, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai, Sằn A M, Nguyễn Thị X và Đặng Ngọc Phương L cùng nhau đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức chơi “xì dách”. Sau đó, có thêm các đối tượng Sằn Cắm M, Trần Thị D, Lê Thị Mỹ L, Võ Hoài Ph, Lê Thị L và Lìu Sì T cùng tham gia đánh bạc. Các con bạc sử dụng 01 tấm bìa “car-ton” làm chiếu bạc và 01 bộ bài tây 52 lá, để đánh bạc.

Cách thức đánh bạc như sau: Quy định mỗi người làm cái 03 ván, ai không muốn làm cái thì chuyển cho người khác. Bắt đầu mỗi ván chơi, người làm cái sử dụng bộ bài tây 52 lá, chia cho mỗi người 02 lá bài. Người chơi được quyền rút thêm tối đa 03 lá bài để cộng điểm, phải đủ từ 16 đến 21 điểm, các lá bài có số điểm tương ứng với con số và không tính “Cơ, Rô, Chuồn, Bích”, riêng lá Át có thể tính 1, 10 hoặc 11 điểm tùy người chơi, các lá J, Q, K tính 10 điểm. Trường hợp được chia 02 lá Át gọi là xì bàn (lớn nhất), chia 01 lá Át với 01 lá 10 hoặc Tây (J, Q, K) gọi là xì dách lớn thứ 02, rút đủ 03 lá bài mà tổng điểm không quá 21 gọi là ngũ linh lớn thứ 03. Các trường hợp còn lại thì so điểm, 21 điểm lớn nhất, quá 21 điểm là ngoắc thua 16 điểm. Nếu người chơi để bài dưới 16 điểm hoặc rút bài quá 28 điểm thì phải đền cho tất cả người chơi trong ván bài đó (đền bài). Quy định mức đặt cược từ 10.000 đồng đến 50.000 đồng 01 ván, người chơi so điểm ăn thua trực tiếp với người làm cái tỷ lệ ăn thua là 1:1.

Đến 15 giờ 15 phút cùng ngày, khi các bị cáo đang tiếp tục đánh bạc thì bị Công an huyện Tr phát hiện bắt quả tang. Thu giữ vật chứng gồm: 01 bộ bài tây 52 lá, 01 tấm bìa “car-ton”, tổng số tiền 10.960.000 đồng trên người các bị cáo và 06 điện thoại di động các loại.

Quá trình điều tra xác định:

- Sằn A M sử dụng 900.000 đồng để đánh bạc, thắng 300.000 đồng, thu giữ 1.200.000 đồng trên người.

- Nguyễn Thị X mang theo 1.620.000 đồng, sử dụng 120.000 đồng để đánh bạc và thua hết 120.000 đồng, thu giữ 1.500.000 đồng trên người.

- Lê Thị Mỹ L sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, thua 200.000 đồng, thu giữ 300.000 đồng trên người.

- Đặng Ngọc Phương L sử dụng 800.000 đồng để đánh bạc, thắng số tiền 600.000 đồng, thu giữ 1.400.000 đồng trên người.

- Võ Hoài Ph sử dụng 800.000 đồng để đánh bạc, thắng số tiền 450.000 đồng, khi lực lượng Công an bắt quả tang Ph bỏ chạy làm rơi số tiền 1.250.000 đồng.

- Sằn Cắm M sử dụng 180.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt M thua hết số tiền 180.000 đồng.

- Trần Thị D sử dụng 2.500.000 đồng để đánh bạc, tham gia đánh bạc 03 ván, thắng số tiền 150.000 đồng, thu giữ 2.650.000 đồng trên người.

- Lìu Sì T sử dụng 2.350.000 đồng, tham gia đánh bạc 02 ván, thắng số tiền 50.000 đồng, thu giữ số tiền 2.400.000 đồng.

- Lê Thị L mang theo 1.580.000 đồng, sử dụng 70.000 đồng để đánh bạc, tham gia 02 ván và thua hết số tiền 70.000 đồng, thu giữ 1.510.000 trên người.

- Tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 7.950.000 đồng.

2. Vật chứng:

- Số tiền 7.950.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

- 01 bộ bài tây 52 lá và 01 tấm bìa “car-ton”.

- Đối với số tiền 1.510.000 đồng của bị cáo Lê Thị L, 1.500.000 đồng của bị cáo Nguyễn Thị X và một số vật chứng khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tr xác định không liên quan đến việc phạm tội nên đã trả lại cho chủ sở hữu.

3. Quyết định của cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2020/HS-ST ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tr, đã quyết định như sau:

- Tuyên bố các bị cáo Sằn A M, Sằn Cắm M, Võ Hoài Ph, Lê Thị L, Nguyễn Thị X, Trần Thị D, Lê Thị Mỹ L, Đặng Ngọc Phương L và Lìu Sì T phạm tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt các bị cáo: Sằn A M, Võ Hoài Ph, Trần Thị D và Lìu Sì T, mỗi bị cáo 04 tháng tù.

- Xử phạt các bị cáo: Sằn Cắm M, Đặng Ngọc Phương L, Nguyễn Thị X, Lê Thị Mỹ L, Lê Thị L, mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về việc thi hành án treo, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

4. Kháng cáo:

Trong thời hạn luật định, các bị cáo Sằn A M, Trần Thị D và Lìu Sì T kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

5. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:

Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo; do đó, mức án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. Tuy nhiên, bị cáo Lìu Sì T và Sằn A M là người dân tộc thiểu số, thiếu hiểu biết và nhận thức pháp luật rất hạn chế; bị cáo M là lao động chính và phải nuôi 04 con nhỏ; các tình tiết này chưa được cấp sơ thẩm ghi nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

6. Quan điểm của Người bào chữa cho bị cáo Lìu Sì T và bị cáo Sằn A M tại phiên tòa phúc thẩm:

Thống nhất quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của 02 bị cáo Lìu Sì T và Sằn A M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng mặt của bị cáo:

Bị cáo Trần Thị D đã được tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về kháng cáo:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thuộc các trường hợp được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về hình phạt:

+ Trong vụ án, bị cáo Trần Thị D là người sử dụng số tiền lớn nhất để đánh bạc; bị cáo kháng cáo nhưng lại vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm không có lý do, thể hiện sự xem thường pháp luật; do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo D.

+ Đối với các bị cáo Lìu Sì T và Sằn A M: Là người dân tộc, học vấn thấp nên hiểu biết và nhận thức pháp luật rất hạn chế; bị cáo M phải nuôi 04 con nhỏ; do đó, áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 cho các bị cáo. Các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, hành vi bộc phát nhất thời và số tiền phạm tội không lớn. Cấp sơ thẩm nhận định 02 bị cáo này sử dụng số tiền đánh bạc nhiều hơn các bị cáo khác là không chính xác vì hành vi của các bị cáo là tương đương nhau; đồng thời, việc ấn định mức án của các bị cáo này lại thấp hơn các bị cáo được hưởng án treo cũng không phù hợp. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy các bị cáo có nhân thân tốt; ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật tại địa phương; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Việc buộc các bị cáo này phải chấp hành hình phạt tù là không cần thiết; do đó, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, chuyển sang hình phạt tiền là đủ răn đe, giáo dục và thu ngân sách Nhà nước.

[4] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Các bị cáo Lìu Sì T và Sằn A M kháng cáo được chấp nhận, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Trần Thị D kháng cáo không được chấp nhận, phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Đối với phần trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp một phần với nhận định nêu trên, nên chấp nhận phần phù hợp.

[6] Chấp nhận toàn bộ quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo Lìu Sì T và Sằn A M.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355 và điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị D;

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lìu Sì T và Sằn A M;

Sửa một phần về hình phạt đối với Bản án hình sự sơ thẩm số:

36/2020/HS-ST ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tr.

1. Tội danh và hình phạt:

1.1. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Trần Thị D 04 (bốn) tháng tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn tù tính từ ngày người bị kết án vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù, được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 31/10/2019 đến ngày 03/11/2019.

1.2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt tiền các bị cáo sau đây về tội “Đánh bạc”, sung vào công quỹ Nhà nước:

- Xử phạt bị cáo Lìu Sì T phải nộp 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Sằn A M phải nộp 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

2. Về án phí:

Bị cáo Trần Thị D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các bị cáo Sằn A M và Lìu Sì T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo khác, về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 241/2020/HS-PT

Số hiệu:241/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về