Bản án về tội đánh bạc số 20/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 20/2021/HSPT NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30/11/2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh BK mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/HSPT, ngày 20/10/2021 đối với bị cáo Hoàng Thị T, do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân dân huyện CĐ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2021/HSST, ngày 08/9/2021  của Tòa án nhân dân huyện CĐ.

Bị cáo bị kháng nghị: Hoàng Thị T (Tên gọi khác: Không), sinh ngày  05/12/1960 tại tỉnh BK; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn BM, xã QB, huyện CĐ, tỉnh BK; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 07/10; dân tôc : Tày; tôn giao : Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn M và bà Nông Thị L (Đều đã chết); chồng: Lê Văn T (Đã ly hôn), có 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh BK tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2012/HSST, ngày 26/6/2012, đã được xóa án tích. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng, không liên quan đến kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NHẬN THẤY  Theo Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện CĐ thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 00 phút ngày 09/6/2021, Công an huyện CĐ đã tiến hành bắt quả  tang Hoàng Thị T khi đang có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số   lô cho Hoàng Văn C, Ma Đình T và Triệu Tiến C tại nhà ở của mình thuộc thôn  BM, xã QB, huyện CĐ, tỉnh BK.

Hồi 20 giờ 45 phút ngày 09/6/2021, tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ  ở, các công trình phụ cận đối với Hoàng Thị T thôn BM, xã QB, huyện CĐ. Vật  chứng thu giữ của vụ án được bảo quản theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự.

Hồi 06 giờ 45 phút ngày 10/6/2021, tiến hành lập biên bản kiểm tra 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của Hoàng Thị T khi bị bắt quả tang. Qua kiểm tra không phát hiện dữ liệu, thông tin trao đổi mua số lô, số đề của Hoàng Thị T.

Quá trình điều tra, truy tố Hoàng Thị T khai nhận: Từ khoảng tháng 4 năm  2021, T  được con dâu mình là chị Sái Thị S, là đại lý bán vé xổ số nhờ ghi bán vé xổ số cho Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết tỉnh BK tại nhà ở của T, vì chị S bận công việc và không sinh sống cùng nhà với T. Cách ngày bị bắt (Ngày 09/6/2021) khoảng 03 ngày, thì trong quá trình ghi vé xổ số hộ chị S, T nảy sinh ý định đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số lô trực tiếp tại nhà ở của mình và do T  một mình tự thực hiện, tự bán số lô thu tiền người mua và chi trả tiền thưởng cho người mua khi trúng, cụ thể: Khi có người mua số lô, người mua chọn  01 cặp số bất kỳ gồm 02 chữ số từ 00 đến 99, khi có kết quả xổ số Miền Bắc mở thưởng vào 18 giờ 30 phút hàng ngày thì đối chiếu, nếu số đã mua trùng với hai chữ số cuối của bất kỳ các giải thì trúng lô, còn lại là không trúng. Nếu cặp số đã đánh trùng lặp nhiều lần lần trở lên ở các giải thì nhân số tiền thưởng lên tương ứng với số lần trúng, thường gọi là trúng nhiều nháy. Tuy nhiên, T  chỉ quy định thanh toán cho người trúng cặp số lặp lại ở mức 02 lần. Nếu người mua trúng một điểm lô, T  bán cho người chơi là 24.000đ, thì T  sẽ trả thưởng cho người mua số tiền 80.000đ và  160.000đ nếu một cặp số lô lặp lại hai lần ở các giải, cặp số lô đánh lặp lại từ ba lần trở lên ở tất cả các giải thì T  cũng chỉ thanh toán việc lặp lại hai lần. Nếu người mua số lô không trúng thưởng, thì người mua mất toàn bộ số tiền bỏ ra để mua số lô cho T  . Từ T  điểm bắt đầu bán số lô cho đến ngày 09/6/2021, T  không nhớ cụ thể đã bán  cho ai? số tiền bao nhiêu? người chơi trúng thưởng hay không trúng thưởng…  Đến khoảng 17 giờ ngày 09/6/2021, khi T  đang ở nhà bán hàng tạp hóa và bán vé xổ số kiến thiết tỉnh BK, thì có Hoàng Văn C  đến hỏi mua số lô, được T đồng ý bán, C đọc mua số 82 là 100 điểm, số 28 là 70 điểm để T  ghi vào mặt sau mảnh giấy được cắt ra từ tờ lịch các con số C đọc là 82:100đ, 28:70đ, rồi đưa lại cho C. Đồng T , C đưa cho T  tổng số tiền là 4.100.000đ (Bốn triệu một trăm nghìn đồng) và được T  đưa lại số tiền 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng). Sau khi bán số lô cho C xong, thì có Ma Đình T vào hỏi mua số lô, T  đồng ý bán cho T và T đọc mua số 83 là 40 điểm, số 97 là 20 điểm, để T  ghi vào mặt sau mảnh giấy được cắt ra từ tờ lịch các con số 83:40đ, 97:20đ, rồi đưa lại cho T. Đồng T , T đưa cho T   tổng số tiền là 1.440.000đ (Một triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng). Sau khi bán số lô cho T xong, thì C quay lại và mua thêm số lô 72 là 05 điểm và đưa cho T  tờ giấy ghi số lô C vừa mua để T  ghi thêm vào đó là 72:5đ. Khi C đang lấy số tiền 120.000đ (Một trăm hai mươi nghìn đồng) để trả cho T  số lô 72 vừa mua, thì bị Công an huyện CĐ bắt quả tang.

Tại thời điểm bán số lô cho Hoàng Văn C  và Ma Đình T thì có Triệu Tiến C đến vào ngồi tại bàn T  ngồi bán vé xổ số, rồi tự ghi các con số ra 01 tờ giấy. Nhưng chưa trao đổi mua số lô với T  và T  cũng chưa được bán số lô cho C, thì bị Công an huyện CĐ bắt quả tang. Ngoài ra, sáng ngày 09/6/2021, có anh Phùng Phúc Đ có gọi điện thoại cho T  để mua vé xổ số do Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết tỉnh BK in ấn và phát hành với các con số 14, 41, 21, 18 mỗi số 30.000đ (Ba mươi nghìn đồng) và hẹn trả tiền sau. Sau đó T  ghi lại các con số  14, 41, 21, 18 mà anh Đ bảo vào 01 mẩu giấy cắt từ tờ lịch để sau đó ghi lại vào vé số do Công ty xổ số phát hành.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án xác định: Tại T  điểm Hoàng Thị T bán thêm số lô 72 với số tiền 120.000đ (Một trăm hai mươi nghìn đồng) cho Hoàng Văn C  thì T  chưa nhận được tiền, do khi C đang lấy tiền để trả thì bị Công an huyện CĐ bắt quả tang và thu giữ. Do đó, T  phải chịu trách nhiệm  hình  sự  đối  với  tổng  số  tiền  dùng  vào  việc  đánh  bạc  trái  phép  là  5.640.000đ (Năm triệu sáu trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2021/HSST, ngày 08/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh BK đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Đánh bạc”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm s khoản 1, khoản 2  Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Thị T 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý  vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2021/HS-ST, ngày 08/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện CĐ, đề nghị Tòa Cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng: Không áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, mà áp dụng hình phạt tù có T  hạn đối với bị cáo Hoàng Thị T . Đồng thời, áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp số tiền 3.200.000đ để đảm bảo cho việc thi hành án và có đơn trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương. Tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, đề nghị cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BK vẫn giữ nguyên nội dung đã kháng nghị. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các nội dung mới tại giai đoạn phúc thẩm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo để sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, T gian thử thách gấp đôi. Về hình phạt bổ sung, đề nghị phạt tiền bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng để sung ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

  Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:  Nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về nội dung và thời hạn kháng nghị là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 18 giờ 00 phút ngày 09/6/2021, tại nhà ở của mình tại thôn BM, xã QB, huyện CĐ, Hoàng Thị T đã có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số lô cho Hoàng Văn C  với số tiền 4.100.0000đ (Bốn triệu một trăm nghìn đồng); bán số lô cho Ma Đình T với số tiền 1.440.000đ (Một triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng). Tổng số tiền bị cáo dùng để đánh bạc là 5.640.000đ (Năm triệu sáu trăm bốn mươi nghìn đồng). Việc đánh bạc bằng hình thức bán số lô, do T  một mình tự thực hiện, tự bán số lô thu tiền người mua và chi trả tiền thưởng cho người mua khi trúng thưởng.

Với hành vi nêu trên của bị cáo, cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Thị T về tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét nội dung kháng nghị, Hội đồng xét xử xét thấy:

Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự . Bị cáo có bố đẻ Hoàng Văn M và em trai là Hoàng Văn T là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến và Huân chương chiến sỹ vẻ vang. Do vậy, cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, năm 2012 đã bị Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh BK xử phạt 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng về tội "Đánh bạc". Phạm tội lần này, cấp sơ thẩm quyết định phạt tiền bị cáo là hình phạt chính và mức tiền phạt: 25.000.000đ là nhẹ, chưa phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện. Bởi lẽ, lần phạm tội trước bị cáo đã bị xử phạt tù có thời  hạn.

Do vậy, xét thấy kháng nghị là có căn cứ được chấp nhận.

Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo có nộp thêm số tiền 3.200.000đ để đảm bảo cho việc thi hành án. Có xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh khó khăn, bị cáo đang phải ở một mình và phải nuôi cháu nội đang học lớp  8. Xét hoàn cảnh của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ mới, đối chiếu với các quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm  phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng Điều 65 về án treo, thì bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng các tình tiết mới, ghi nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BK tại phiên tòa, cho bị cáo hưởng án treo, cũng đủ tác dụng để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Do bị cáo có tài sản,  phạm tội với mục đích thu lợi bất chính, do vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phạt tiền.

[4] Số tiền bị cáo đã nộp, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 

[5] Án phí: Vụ án do Viện kiểm sát kháng nghị nên bị cáo không phải chịu  án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2021/HS-ST ngày 08/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh BK.

Áp dụng  khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của  Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị T 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, T gian thử thách 18 (Mười tám) tháng về tội "Đánh bạc". T  hạn tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã QB, huyện CĐ, tỉnh BK giám sát, giáo dục trong T  gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện  theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

2. Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm  2015.

Phạt tiền bị cáo Hoàng Thị T 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

3. Về vật chứng: Tạm giữ số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm nghìn đồng) bị cáo đã nộp theo biên lai số 0001251, ngày 01/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện CĐ, tỉnh BK để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

4.  Về  án  phí:  Căn  cứ  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày  30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa  án. Bị cáo Hoàng Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm..

5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

692
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 20/2021/HSPT

Số hiệu:20/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về