Bản án về tội đánh bạc số 174/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 174/2022/HS-ST NGÀY 22/08/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 187/2022/TLST-HS ngày 04/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 176/2022/QĐXXST-HS ngày 09/8/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1990; HKTT: Khu phố Doi Sóc, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ1, sinh năm 1960 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1962; Có vợ Nguyễn Thị Q, sinh năm 1996 và có 02 con (lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2022); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/5/2022 đến 24/5/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Đỗ Trọng Q, sinh năm 1992; HKTT: Khu phố Rích Gạo, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Trọng H, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960; Có vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1997 và có 02 con (lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2021); Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án số: 68/2014/HSST ngày 26/3/2014 của Toà án nhân dân thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Bắc Ninh xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội “ Cưỡng đoạt tài sản” Ngày 31/8/2015, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 09/QĐ-XPHC ngày 08/01/2021 của Công an thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Bắc Ninh quyết định phạt bị cáo số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Ngày 08/01/2021, bị cáo đã nộp tiền phạt xong.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/5/2022 đến 24/5/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương (Có mặt tại phiên tòa).

3. Nguyễn Đức H, sinh năm 1991; HKTT: Khu phố Rích Gạo, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức C, sinh năm 1959 và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964; Có vợ Dương Thị T, sinh năm 1993 và có 02 con (lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/5/2022 đến 24/5/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. (Có mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 42 phút ngày 16/5/2022, tại phòng thờ tầng 2 nhà ở của Nguyễn Văn Đ ở khu phố Doi Sóc, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh, Công an phường P kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Văn Đ đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm ăn tiền với Đỗ Trọng Q và Nguyễn Đức H. Vật chứng thu giữ tại chiếu bạc, vị trí ngồi của các bị cáo gồm: Nguyễn Văn Đ số tiền 2.500.000 đồng; Đỗ Trọng Q số tiền 2.650.000 đồng; Nguyễn Đức H số tiền 3.050.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quân bài, 01 chiếu nhựa. Như vậy, tổng số tiền các bị cáo Đ, Q và H sử dụng vào việc đánh bạc là 8.200.000 đồng.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 107/CT-VKS-T ngày 01/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Đỗ Trọng Q và Nguyễn Đức H về tội “ Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, cả ba bị cáo lần lượt khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng, các bị cáo đều thừa nhận trưa ngày 16/5/2022, các bị cáo Q, H đến nhà Đ chơi sau đó cùng nhau rủ chơi đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm ăn tiền. Ba người đi lên phòng thờ tầng 2 nhà Đ để đánh bạc. Đ trải chiếu và lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân có sẵn ở tầng hai để ba người chơi. Các bị cáo đều thừa nhận cách thức đánh phỏm, quy ước tỷ lệ thắng thua như Cáo trạng nêu là đúng. Bị cáo Đ khai mang theo số tiền 1.500.000 đồng, khi bị bắt quả tang Công an thu giữ số tiền 2.500.000 đồng. Bị cáo Q khai nhận mang theo số tiền 3.000.000 đồng, khi bị bắt quả tang, Công an thu giữ số tiền 2.650.000 đồng. Bị cáo H khai nhận mang theo số tiền 3.700.000 đồng, khi bị bắt quả tang Công an thu giữ số tiền 3.050.000 đồng. Tổng số tiền Cáo trạng truy tố là các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 8.200.000 đồng, các bị cáo không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về đề nghị Hội đồng xét xử:

1/ Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Đỗ Trọng Q và Nguyễn Đức H phạm tội “Đánh bạc”.

2/ Về hình phạt và điều luật áp dụng:

Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Trọng Q từ 08 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16/5/2022 đến ngày 24/5/2022. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 triệu đến 15 triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước.

Áp dụng: khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 35; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 25 triệu đến 30 triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H từ 20 triệu đến 25 triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước.

3/ Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 8.200.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

Trả lại các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đức H mỗi bị cáo 10 triệu đồng theo hai phiếu thu lần lượt là số: 0002597, 0002598 cùng ngày 22/8/2022 nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếu nhựa, 01 bộ bài tú lơ khơ.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo lần lượt thừa nhận có tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T; Điều tra viên Công an thành phố T, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ có trong hồ sơ vụ án, từ đó có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 42 phút ngày 16/5/2022, tại phòng thờ trên tầng 2 nhà Nguyễn Văn Đ ở khu phố Doi Sóc, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh, các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Đỗ Trọng Q và Nguyễn Đức H có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm ăn tiền với tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 8.200.000 đồng. Như vậy hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, căn cứ vào số tiền đánh bạc, nhân thân của các bị cáo. Do vậy Cáo trạng truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đây là vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công cụ thể. Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội do các bị cáo hám lời, muốn kiếm tiền bằng hình thức đánh bạc nên đã dẫn đến hành vi phạm tội.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nơi xảy ra tội phạm. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử các bị cáo kịp thời nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy:

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đức H có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Bị cáo Đỗ Trọng Q có nhân thân xấu: Ngày 26/3/2014 bị Toà án nhân dân thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Bắc Ninh xử phạt 36 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và ngày 08/01/2021 bị Công an thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 09/QĐ-XPHC xử phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Tính đến nay bản án, quyết định nêu trên không coi là tiền án, tiền sự nhưng Hội đồng xét xử đánh giá về nhân thân của bị cáo Q khi quyết định hình phạt.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, hai bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đức H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trước khi xét xử bị cáo Đ và H đều tự nguyện nộp một khoản tiền tại Cơ quan thi hành án dân sự thành phố T với mục đích để khắc phục hành vi trái pháp luật của bản thân nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đức H có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ rằng, hơn nữa có nhiều tình tiết giảm nhẹ; Xét thấy, chỉ cần áp dụng Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo Đ, H hình phạt bằng tiền cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Đối với bị cáo Đỗ Trọng Q có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử về hành vi “Cưỡng đoạt tài sản” và bị Công an thành phố T xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc nhưng không lấy làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân. Qua đây thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo nên cần thiết phải cách ly bị cáo Đỗ Trọng Q ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung, xét thấy các bị cáo phạm tội với mục đích thu lời bất chính nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo. Tuy nhiên bị cáo Đ, H như đã phân tích ở trên nên áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Q là phù hợp.

[6] Về vật chứng:

Đối 01 chiếu nhựa, 01 bộ bài tú lơ khơ tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đ xác định đây là công cụ phạm tội và là vật dụng của riêng bị cáo, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định. Xét thấy vật dụng nêu trên là công cụ các bị cáo sử dụng trong quá trình phạm tội, giá trị thấp Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 8.200.000 đồng các bị cáo sử dụng trong quá trình đánh bạc, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước là có căn cứ.

Đối với số tiền bị cáo Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Đức H đã tự nguyện nộp trước khi xét xử theo hai phiếu thu lần lượt là số: 0002597, 0002598 cùng ngày 22/8/2022 mỗi phiếu thu 10.000.000 đồng cần trả lại hai bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn Đ, Đỗ Trọng Q và Nguyễn Đức H phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Trọng Q 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16/5/2022 đến ngày 24/5/2022. Phạt bổ sung bị cáo 10 (Mười) triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước.

Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 35; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 25 (hai mươi năm) triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 25 (hai mươi năm) triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 8.200.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam được niêm phong trong 01 phong bì thư được niêm yết theo quy định, các mép dán kín, có đóng dấu niêm phong của Cơ quan CSĐT Công an thành phố T, chữ ký xác nhận của người niêm phong, bên ngoài phong bì thư có ghi “Tiền vật chứng của vụ án đánh bạc xảy ra ngày 16/5/2022 tại Doi Sóc, P, T, Bắc Ninh” Tịch thu tiêu hủy 01 chiếu nhựa, 01 bộ bài tú lơ khơ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T và biên bản giao nhận tài sản số 33/2022/BBBG- KBNN ngày 03/8/2022 tại Kho bạc Nhà nước T).

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Đức H mỗi bị cáo 10 (mười) triệu đồng theo hai phiếu thu lần lượt là số: 0002597, 0002598 cùng ngày 22/8/2022 nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Đỗ Trọng Q và Nguyễn Đức H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 174/2022/HS-ST

Số hiệu:174/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về