Bản án về tội đánh bạc số 17/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 17/2022/HS-PT NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 05 năm 2021 do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Long An.

Các bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Hiếu L, sinh năm 1975, giới tính: Nam; nơi cư trú: Ấp B, xã B1, huyện T1, tỉnh Long An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 06/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Nguyễn Văn L1 và bà Nguyễn Thị S; có vợ tên là Phạm Thị Ngọc K; có 02 người con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18 tháng 3 năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện B2 xử phạt 5.000.000d về tội “Đánh bạc”, đã đóng phạt năm 2014; bị cáo được tại ngoại, có mặt.

2. Bùi Quang T (Tên gọi khác: C), sinh năm 1983, giới tính: Nam; nơi cư trú: Ấp B, xã B1, huyện T1, tỉnh Long An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Thợ hồ; con ông Bùi Văn T2 (Chết) và bà Lê Thị C1; có vợ tên là Nguyễn Thị Thanh P; có 01 con tên Bùi Tấn Đ, sinh năm 2013; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 26/5/2010, bị Công an huyện T1 xử phạt 7.500.000đ về hành vi “Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền”, chưa đóng phạt. Nhân thân: Ngày 06/01/2017, bị Công an huyện T1 xử phạt 2.000.000đ về hành vi “Đánh bạc”, đã đóng phạt; Ngày 16/5/2017, bị Công an huyện T1 xử phạt 2.000.000đ về hành vi “Đánh bạc”, đã đóng phạt; bị cáo được tại ngoại, có mặt.

Ngoài ra, còn có 03 bị cáo khác là Nguyễn Chí T3, Nguyễn A và Trần Hoài P1 không kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị không triệu tập.

Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo hoặc không có liên quan đến kháng cáo không triệu tập:

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Đỗ Lê Linh C2, sinh năm 1991. Địa chỉ: Ấp B3, xã B1, huyện T1, tỉnh Long An.

2. Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1963. Địa chỉ: Ấp B3, xã B1, huyện T1, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/5/2020, Công an huyện T1 nhận được đơn tố giác kèm theo 04 đoạn video ghi hình có âm thanh của quần chúng nhân dân ấp B3, xã B1, huyện T1 tố giác các đối tượng có hành vi đá gà ăn thua bằng tiền trái phép vào ngày 29/4/2020 và ngày 01/5/2020. Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện T1 đã làm rõ trận gà như sau: Khoảng 14 giờ ngày 29/4/2020, Nguyễn Hiếu L đem đến khu vực bãi đất bỏ hoang của ông Nguyễn Văn G (tên gọi khác E) ở ấp B3, xã B1, huyện T1 một con gà trống nòi, lông màu đỏ, đen, chấm trắng (gà que bông), không rõ trọng lượng. Cùng lúc đó, có Nguyễn Chí T3 (tên gọi khác T4) hỏi mượn 01 con gà nòi, lông màu trắng (gà bướm), không rõ trọng lượng của anh Đỗ Lê Linh C2 đem đến để cáp đá ăn thua bằng tiền trái phép. Gà que bông của L cân nặng hơn gà bướm của T3 nên L đá chấp 10 ăn 8. Số tiền cá cược bên gà của L do L bỏ ra 3.000.000đ. Số tiền cá cược bên gà của T3 do T3 bỏ ra 2.400.000đ. Gà của L do Trần Hoài P1 ôm gà cho L băng 01 cựa sắt. Sau đó, L ôm gà để Bùi Quang T băng 01 cựa sắt còn lại. Gà của L do L thả gà. Bên gà của T3 do Nguyễn A ôm gà, T3 băng cựa và thả gà. Bùi Quang T phân xử thắng thua. Kết quả, gà của L thắng, T3 đưa cho T 2.400.000đ tiền thua cược. Sau đó, T đưa lại cho L. Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện T1, Nguyễn Hiếu L, Nguyễn Chí T3, Trần Hoài P1, Nguyễn A và Bùi Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Ti kết luận giám định số 5941/C09B ngày 08 tháng 12 năm 2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an xác định 04 đoạn video nêu trên: Không phát hiện thấy dấu vết cắt, ghép, chỉnh sửa về nội dung.

Ti Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Long An đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Hiếu L, Nguyễn Chí T3, Bùi Quang T, Nguyễn A và Trần Hoài P1 phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 17; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hiếu L 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bị cáo thi hành án phạt tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 và khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Bùi Quang T (tên gọi khác là C) 04 (bốn) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bị cáo thi hành án phạt tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

1. Bị cáo Nguyễn Chí T3 (tên gọi khác là T4) 23.000.000đ (hai mươi ba triệu đồng);

2. Bị cáo Nguyễn A 21.000.000đ (hai mươi mốt triệu đồng);

3. Bị cáo Trần Hoài P1 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của các bị cáo.

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, bị cáo Nguyễn Hiếu L kháng cáo đề nghị áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Bị cáo Bùi Quang T kháng cáo đề nghị áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.

Ti phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như cấp sơ thẩm đã xét xử và xác định Tòa án sơ thẩm xét xử về tội “Đánh bạc” theo quy định khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là đúng, không oan. Các bị cáo kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng hình phạt tiền đối các bị cáo hoặc cho các bị cáo được hưởng án treo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Các bị cáo Nguyễn Hiếu L, Bùi Quang T thực hiện kháng cáo đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.

- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Nguyễn Hiếu L có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực nộp lại số tiền đánh bạc là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo L 06 tháng tù. Đối với bị cáo Bùi Quang T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. trong vụ án này bị cáo T là người giúp sức tích cực nên cấp sơ thẩm áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 04 tháng tù. Các bị cáo kháng cáo đề nghị áp dụng hình phạt tiền hoặc cho các bị cáo hưởng án treo. Xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo có bổ sung hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo là tương xứng với hành vi của các bị cáo gây ra. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, có ý thức chấp hành pháp luật kém nên đối với các bị cáo cần phải có hình phạt nghiêm khắc là bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù mới có khả năng giáo dục và phòng ngừa chung, cho nên các bị cáo yêu cầu áp dụng hình phạt tiền hoặc hưởng án treo là không có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Long An, về hình phạt đối với các bị cáo. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo hoặc cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các bị cáo Nguyễn Hiếu L, Bùi Quang T kháng cáo trong thời hạn của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

[2] Các bị cáo Nguyễn Hiếu L, Bùi Quang T đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản án sơ thẩm đã nêu và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra trước phiên tòa phúc thẩm, thể hiện: Khoảng 14 giờ ngày 29/4/2020, tại ấp B3, xã B1, huyện T1, tỉnh Long An, Nguyễn Hiếu L, Nguyễn Chí T3 thực hiện hành vi đá gà ăn thua bằng tiền trái phép với tổng số tiền hai bên tham gia cá cược là 5.400.000đ. Trần Hoài P1, Nguyễn A và Bùi Quang T đã có hành vi giúp sức cho L và T3 thực hiện hành vi đánh bạc. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Đánh bạc" được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T: Khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như: Các bị cáo không có tình tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Nguyễn Hiếu L có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực nộp lại số tiền đánh bạc là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo L 06 tháng tù. Đối với bị cáo Bùi Quang T có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại các điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và trong vụ án này bị cáo T là người giúp sức tích cực nên cấp sơ thẩm áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 04 tháng tù. Các bị cáo kháng cáo đề nghị áp dụng hình phạt tiền hoặc cho các bị cáo hưởng án treo. Xét thấy: Hành vi trái pháp luật của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo thực hiện do lỗi cố ý, hành vi đó không chỉ trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng mà còn làm ảnh hưởng đến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng và chống tệ nạn cờ bạc trong xã hội. Các bị cáo kháng cáo có bổ sung tình tiết mới là hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo là tương xứng với hành vi của các bị cáo gây ra. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, có ý thức chấp hành pháp luật kém, bị cáo L thì đã từng bị xử phạt về tội “Đánh bạc”; bị cáo T thì nhiều lần bị xử lý hành chánh về hành vi “Đánh bạc”, nên đối với các bị cáo cần phải có hình phạt nghiêm khắc hơn là bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù mới có khả năng răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, các bị cáo yêu cầu áp dụng hình phạt tiền hoặc hưởng án treo là không có căn cứ. Như vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T1 đối với các bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

[5] Các khoản khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Kng chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Long An về hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hiếu L, Bùi Quang T phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 17; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hiếu L 06 (Sáu) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bị cáo thi hành án phạt tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 17; Điều 50; Điều 58; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 và khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Bùi Quang T (tên gọi khác là C) 04 (Bốn) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bị cáo thi hành án phạt tù.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc các bị cáo Nguyễn Hiếu L và Bùi Quang T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các khoản khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 17/2022/HS-PT

Số hiệu:17/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về