Bản án về tội đánh bạc số 171/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 171/2022/HS-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 05 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 145/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2022/HSST-QĐ ngày 27/7/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Th, sinh năm 1989, tại tỉnh Nghệ An; hộ khẩu thường trú: Xóm 7, xã Y, huyện Q, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Tổ 6, khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương, nghề nghiệp: Thu mua phế liệu; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1965; có vợ tên Nguyễn Thị T, sinh năm 1994; có 02 con: Lớn sinh năm 2018 và nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Trương Hiệp H, sinh năm 1982, tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Tổ 3, khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương H H, sinh năm 1957 và bà Đỗ Thị Hiệp X, sinh năm 1957; có vợ là Trần Thị Quý H, sinh năm 1990; có 03 con: Lớn nhất sinh năm 2009 và nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

3. Trần Văn K, sinh năm 1990; tại tỉnh Nghệ An; hộ khẩu thường trú: Xóm N, xã V, huyện N, tỉnh Nghệ An; địa chỉ tạm trú: Nhà trọ L, tổ 3, khu phố 8, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không, quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1968; có vợ là Lê Thị H, sinh năm 1992; có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

4. Phan Thái H1, sinh năm 1977, tại Thành phố Hà Nội; hộ khẩu thường trú: Khối 3C, thị trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; tạm trú: Ấp B, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đức D (đã chết) và bà Đường Thị B, sinh năm 1947; có vợ là Thái Thị Thanh T, sinh năm 1981; có 02 con: Lớn sinh năm 2004 và nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 29/3/2013, bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai xử phạt 7.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo Bản án sơ thẩm số 28/2013/HS- ST; đã chấp hành xong năm 2013.

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

5. Nguyễn Đức D, sinh năm 1978, tại tỉnh Thái Bình; hộ khẩu thường trú: Xóm 1, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; chỗ ở hiện nay: Khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1955 và bà Lê Thị N, sinh năm 1957; có vợ là Bùi Thị Thanh T, sinh năm 1983; có 02 con: Lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/8/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 6.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 310/2012/HS-ST. Bị cáo đã chấp hành xong năm 2013.

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

6. Đoàn Quốc B, sinh năm 1985, tại tỉnh Thanh Hóa; hộ khẩu thường trú: Khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Quốc B, sinh năm 1954 và bà Mai Thị Đ (đã chết); có vợ là Dương Thị G, sinh năm 1985; có 02 con: Lớn sinh năm 2008 và nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

7. Phan Văn P, sinh năm 1977, tại tỉnh Nghệ An; hộ khẩu thường trú: Xóm 5, xã Y, huyện Q, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Khu phố B, phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thu mua phế liệu; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn Q (đã chết) và bà Trần Thị C, sinh năm 1953; có vợ là Trần Thị T, sinh năm 1986; có 04 con: Lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

8. Nguyễn Văn L, sinh năm 1978, tại tỉnh Nghệ An; hộ khẩu thường trú: Xóm 7, xã Y, huyện Q, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thu mua phế liệu; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị H; có vợ tên Phan Thị V, sinh năm 1986; có 02 con: Lớn sinh năm 2006 và nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

9. Nguyễn Quang T, sinh năm 1993, tại tỉnh Quảng Bình; hộ khẩu thường trú: Thôn D 10, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; chỗ ở hiện nay: Khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc V, sinh năm 1968 và bà Trần Thị N, sinh năm 1970; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

10. Đinh Đức Đ, sinh năm 1983, tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Tổ 4, khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh P, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1960; có vợ tên Ngô Lý M, sinh năm 1980; có 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn K, Đoàn Quốc B, Phan Thái H1, Nguyễn Quang T, Nguyễn Đức D là bạn bè do cùng làm tài xế lái xe tải. Nguyễn Văn L, Phan Văn P, Trương Hiệp H, Đinh Đức Đ và Nguyễn Văn Th là bạn bè với nhau.

Do biết tại bãi trộn xi măng của Công ty T thuộc khu phố B, phường K thường xuyên tổ chức đánh bạc dưới hình thức xốc đĩa thắng thua bằng tiền nên khoảng 17 giờ ngày 16/01/2022, Th, H và Đ đi bộ đến để tham gia chơi. Khi đến nơi, Th, H và Đ nhìn thấy có 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) đang làm cái cho khoảng 10 người chơi xốc đĩa thắng thua bằng tiền, mỗi ván đặt cược số tiền từ 20.000 đồng trở lên. Một lát sau, Th làm cái thay cho người đàn ông này. Đến khoảng 17 giờ 30 phút, H thay Th làm cái. Lúc này, H1, P và L cũng đến tham gia chơi. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, K, B đang uống bia tại Công ty T thấy tại bãi trộn xi măng thuộc khu phố B, phường K đang có tổ chức chơi đánh bạc với hình thức xốc đĩa thắng thua bằng tiền nên đi đến và tham gia chơi. Khi K vào tham gia chơi thì K làm cái thay cho H. Đến khoảng 20 giờ 20 phút, T, D đang uống bia tại Công ty T nhìn thấy có người đang chơi xốc đĩa thắng thua bằng tiền nên vào và tham gia chơi.

Đến khoảng 20 giờ 30 phút, nhận được tin báo của nhân dân, Cơ quan Công an tiến hành kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Trần Văn K, Đoàn Quốc B, Trương Hiệp H, Đinh Đức Đ, Nguyễn Văn Th, Phan Thái H1, Phan Văn P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T, Nguyễn Đức D đang đánh bạc dưới hình thức là xốc đĩa thắng thua bằng tiền cùng với 01 số người không rõ lai lịch (đã bỏ chạy thoát). Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời thu giữ tại chiếu bạc số tiền tang 4.775.000 đồng, 01 cái đĩa tròn, 01 cái chén tròn, 04 miếng giấy hình tròn có 02 màu xanh trắng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T còn tiến hành tạm giữ:

- Số tiền 1.600.000 đồng do Trần Văn K giao nộp;

- Số tiền 1.700.000 đồng do Đoàn Quốc B giao nộp;

- Số tiền 40.000 đồng do Đinh Đức Đ giao nộp;

- Số tiền 300.000 đồng do Nguyễn Văn L giao nộp;

- Số tiền 100.000 đồng do Nguyễn Đức D giao nộp;

- Số tiền 4.000.000 đồng do Phan Văn H1 giao nộp;

Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận cụ thể như sau:

Trần Văn K khai: Mang theo số tiền 5.000.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, K thua số tiền 3.000.000 đồng, khi bị bắt quả tang K bị thu giữ tại chiếu bạc 400.000 đồng, thu giữ trên người 1.600.000 đồng.

Đoàn Quốc B khai: Mang theo số tiền 4.000.000 đồng và sử dụng số tiền 2.300.000 đồng để đánh bạc, còn lại số tiền 1.700.000 đồng B không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Bình thua số tiền 300.000 đồng, khi bị bắt quả tang B bị thu giữ tại chiếu bạc 2.000.000 đồng, thu giữ trên người 1.700.000 đồng.

Trương Hiệp H khai: Mang theo số tiền 2.700.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, H thua hết số tiền 2.700.000 đồng.

Nguyễn Văn Th khai: Mang theo số tiền 2.200.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Th thua hết số tiền 2.200.000 đồng.

Phan Thái H1 khai: Mang theo số tiền 4.900.000 đồng và sử dụng số tiền 900.000 đồng để đánh bạc, còn lại số tiền 4.000.000 đồng H1 không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Quá trình đánh bạc, H1 thua hết 900.000 đồng, bị thu giữ trên người 4.000.000 đồng.

Phan Văn P khai: Mang theo số tiền 700.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, P thua hết số tiền 700.000 đồng.

Nguyễn Văn L khai: Mang theo số tiền 700.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, L thua 400.000 đồng, bị thu giữ trên người 300.000 đồng.

Nguyễn Quang T khai: Mang theo số tiền 675.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, T đặt cược 100.000 đồng thì bị bắt quả tang, bị thu giữ trên chiếu bạc 575.000 đồng.

Đinh Đức Đ khai: Mang theo số tiền 140.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Đ thua 100.000 đồng, bị thu giữ trên người 40.000 đồng.

Nguyễn Đức D khai: Mang theo số tiền 200.000 đồng và sử dụng hết số tiền mang theo để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Dương thua 100.000 đồng, bị thu giữ trên người 100.000 đồng.

Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của các bị cáo, xác định tổng số tiền Trần Văn K, Đoàn Quốc B, Trương Hiệp H, Đinh Đức Đ, Nguyễn Văn Th, Phan Thái H1, Phan Văn P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T, Nguyễn Đức D sử dụng để đánh bạc là 15.515.000 đồng.

Quá trình chơi đánh bạc, khi lực lượng công an bắt quả tang có một số đối tượng (không rõ lai lịch) đã bỏ trốn, quá trình điều tra xác minh đến nay chưa xác định được các đối tượng này nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 156/CT-VKS.TU ngày 15/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên quyết định: Truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Th, Trần Văn K, Trương Hiệp H, Đoàn Quốc B, Phan Thái H1, Phan Văn P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T, Nguyễn Đức D, Đinh Đức Đ về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Giữ nguyên quan Đ truy tố đối với các bị cáo như nội dung cáo trạng. Các bị cáo bị truy tố về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Trong đó, bị cáo Nguyễn Văn Th, Trần Văn K, Trương Hiệp H tham gia với vai trò làm cái; bị cáo Nguyễn Đức D và Phan Thái H1 có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt tiền về tội đánh bạc. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; riêng các bị cáo Trần Văn K, Đoàn Quốc B, Trương Hiệp H, Đinh Đức Đ, Nguyễn Văn Th, Phan Văn P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”; bị cáo Trần Văn K được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự do có ông ngoại là người có công với cách mạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức D và bị cáo Phan Thái H1 mỗi bị cáo từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo Trương Hiệp H, Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn K từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo Đoàn Quốc B, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T, Đinh Đức Đ, Phan Văn P mỗi bị cáo từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền đánh bạc bị thu giữ là 6.815.000 đồng; hoàn trả cho bị cáo H1 4.000.000 đồng và bị cáo Bình 1.700.000 đồng là số tiền không dùng để đánh bạc; tịch thu tiêu hủy dụng cụ đánh bạc là 01 cái đĩa hình tròn, 01 cái chén hình tròn, 04 miếng giấy hình tròn có 02 mặt xanh, trắng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như trên, không trình bày ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo có điều kiện chấp hành án và làm việc nuôi sống gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Đối với các đối tượng (không rõ lai lịch) cùng tham gia đánh bạc với các bị cáo, đã bỏ trốn nên Cơ quan Điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định.

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan Điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/01/2022, tại bãi trộn xi măng của Công ty Timberland thuộc khu phố B, phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Nguyễn Văn Th, Trần Văn K, Trương Hiệp H, Đoàn Quốc B, Phan Thái H1, Đinh Đức Đ, Phan Văn P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T, Nguyễn Đức D đã có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức “xốc đĩa”. Tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 15.515.000 đồng. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng và nếp sống văn minh xã hội. Hiện nay, tình hình đánh bạc được thua bằng tiền đang diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp, do đó cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Trần Văn K, Đoàn Quốc B, Trương Hiệp H, Đinh Đức Đ, Nguyễn Văn Th, Phan Văn P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T được hưởng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại Đ i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phan Thái H1, Nguyễn Đức D được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại Đ s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Trần Văn K được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự do có ông ngoại là người có công với cách mạng.

[7] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Đức D đã bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 6.000.000 đồng về tội đánh bạc theo Bản án hình sự sơ thẩm số 310/2012/HS-ST ngày 28/8/2012, bị cáo đã thi hành xong ngày 15/4/2013. Bị cáo Phan Thái H1 đã bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai xử phạt 7.000.000 đồng về tội đánh bạc theo Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2013/HS-ST ngày 29/3/2012, bị cáo đã chấp hành xong ngày 18/9/2013.

[8] Xét vai trò đồng phạm: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, không có việc tổ chức, bàn bạc, thống nhất giữa các bị cáo. Các bị cáo đều thực hiện tội phạm với vai trò thực hành, tham gia đánh bạc. Trong đó, bị cáo Nguyễn Văn Th, bị cáo Trần Văn K và bị cáo Trương Hiệp H tham gia với vai trò cao hơn là trực tiếp làm cái cho các bị cáo khác đánh bạc.

[9] Trên cơ sở đánh giá toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò đồng phạm và nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự; số tiền đánh bạc không lớn; các bị cáo đã ăn năn hối lỗi; có nơi cư trú rõ ràng nên không cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mà áp dụng hình phạt tiền cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Tuy nhiên, cá thể hóa vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo mà Hội đồng xét xử quyết định hình phạt phù hợp cho mỗi bị cáo. Trong đó, bị cáo Th, bị cáo H, bị cáo K thực hiện tội phạm với vai trò làm cái; bị cáo D, bị cáo H1 từng bị xử phạt tiền về tội đánh bạc nay lại tiếp tục phạm tội nên mức hình phạt phải cao hơn các bị cáo khác. Bị cáo B chỉ tham gia đánh bạc, không làm cái nhưng số tiền bị cáo sử dụng đánh bạc tương đối lớn nên hình phạt đối với bị cáo B phải cao hơn các bị cáo Phúc, L, Thái, Đ.

[10] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Đối với số tiền đánh bạc bị thu giữ là 6.815.000 đồng phải tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; đối với công cụ phạm tội là: 01 cái đĩa, 01 cái chén và 04 miếng giấy hình tròn có hai mặt xanh trắng phải tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 4.000.000 đồng của bị cáo H1 và số tiền 1.700.000 đồng của bị cáo B không dùng để đánh bạc nên hoàn trả cho các bị cáo.

[11] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, biện pháp xử lý vật chứng và hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Văn Th, Trần Văn K, Trương Hiệp H, Đoàn Quốc B, Phan Thái H1, Phan Văn P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Quang T, Nguyễn Đức D, Đinh Đức Đ phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về trách nhiệm hình sự:

2.1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Trương Hiệp H số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

2.2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Trần Văn K số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

2.3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ s khoản khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự - Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức D số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Phan Thái H1 số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

2.4. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 17; Điều 58; Đ i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, - Xử phạt các bị cáo Đoàn Quốc B số tiền 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Phan Văn P số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Đinh Đức Đ số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 6.815.000 đồng (Sáu triệu tám trăm mười lăm nghìn đồng).

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 cái đĩa hình dạng tròn đã qua sử dụng; 01 cái chén hình dạng tròn đã qua sử dụng; 04 miếng giấy hình dạng tròn có hai mặt xanh, trắng.

- Hoàn trả cho bị cáo Phan Thái H1 số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

- Hoàn trả cho bị cáo Đoàn Quốc B số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm nghìn đồng).

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Th, Trương Hiệp H, Trần Văn K, Phan Thái H1, Nguyễn Đức D, Đoàn Quốc B, Nguyễn Văn L, Phan Văn P, Đinh Đức Đ, Nguyễn Quang T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 171/2022/HS-ST

Số hiệu:171/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về