Bản án về tội đánh bạc số 115/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 115/2021/HS-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh B, sinh năm 1975 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ sơn mài; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị B (đã chết);

vợ là Võ Thị T và có 02 con sinh năm 1999 và năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Lộc T, sinh năm 1986 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ giúp gia đình; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị Mai E; vợ là Nguyễn Thị Kim N; tiền án, tiền sự: Không; ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1990 tại thành phố Cần Thơ; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã Trường X, huyện Thới L, thành phố Cần Thơ; chỗ ở: Khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Trần Thị T; vợ là Phan Thị T; bị cáo có 02 con sinh năm 2008 và năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Thanh D, sinh năm 1983 tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; chỗ ở: Ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh H (chết) và bà Huỳnh Thị N; có 02 con sinh năm 2011 và 2015; tiền án, tiền sự: Không; ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Thị N, sinh năm 1973 tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã C, huyện T, tỉnh An Giang; chỗ ở: Ấp L, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Cao Thị B (đã chết); chồng là Trương Thanh H (đã ly hôn); có 02 con sinh năm 1993 và năm 2003; tiền án: Ngày 17/12/2019 bị TAND thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 255/2019/HS-ST, chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ ngày 30/8/2020 theo Giấy chứng nhận số 28/GCN; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/01/2018 bị Công an xã An Tây, thị xã Bến Cát xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, ngày 10/01/2018 đã chấp hành xong (đã nộp phạt); ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

6. Trần Hoàng Â, sinh năm 1992 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Phạm Thị H; tiền án; tiền sự: Không; ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

7. Đỗ Thanh P, sinh năm 1974 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn L (đã chết) và bà Lê Thị B; vợ là Nguyễn Thị T; có 02 con sinh năm 2012 và năm 2017; tiền án: Ngày 04/7/2017 bị TAND thị xã Bến Cát xử phạt 10.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2019/HSST, đã thi hành xong phần án phí hình sự vào ngày 11/02/2020, đã nộp tiền phạt vào ngày 15/9/2020; tiền sự: Không; ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

8. Nguyễn Hoàng Đạt T, sinh năm 1988 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoàng M (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; vợ là Nguyễn Thị Thão C (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 04/7/2013 bị xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục theo Quyết định số 1635/QĐ-UBND ngày 04/7/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương về hành vi “cố ý gây thương tích”, đến ngày 17/3/2015 chấp hành xong theo Giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục số 98/GCN-PH(HS); bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

9. Nguyễn Minh D, sinh năm 1978 tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; vợ là Đỗ Thị Thu T (đã ly hôn); bị cáo có 01 con sinh năm 2005; tiền án; tiền sự: Không; ngày 24/12/2020 bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ công an thị xã Bến Cát đến ngày 02/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tại ngoại cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 24/12/2020, Công an xã An Tây, thị xã Bến Cát nhận được tin báo tại nhà Nguyễn Minh D tại ấp A, xã An T, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương có một nhóm đối tượng tổ chức đánh bạc lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền nên tiến hành kiểm tra bắt quả tang: Nguyễn Lộc T, Đỗ Thanh P, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hoàng Đạt T, Nguyễn Minh D và thu giữ tang vật gồm:

+ Số tiền trên chiếu bạc 4.500.000 đồng.

+ 01 bộ tài xỉu + 01 chiếu sợi có kích thước 1,5 x 1,65 m + Thu giữ số tiền 11.000.000 đồng của Nguyễn Lộc T.

+ Thu giữ số tiền 100.000 đồng của Đỗ Thanh P.

+ Thu giữ số tiền 600.000 đồng của Nguyễn Thanh D.

Quá trình điều tra Nguyễn Lộc T, Đỗ Thanh P, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hoàng Đạt T, Nguyễn Minh D khai nhận:

Khoảng 20 giờ ngày 23/12/2020, Nguyễn Minh D điện thoại cho P rủ P xuống nhà Minh D chơi đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền thì P đồng ý, P gọi điện thoại rủ T và B cùng đến nhà Minh Dương, Â và P điện thoại cho Minh D cũng được rủ xuống chơi. Tại đây, P, B, T bàn bạc với nhau hùn mỗi người 5.000.000 đồng để làm cái, lúc này có Thanh D, N, T đi ngang qua thấy mọi người tụ tập nên đi vào uống cà phê nói chuyện. B mượn nhà của Minh D để mọi người chơi đánh bạc, Minh D đồng ý. B lấy 01 bộ tài xỉu mang theo ra làm cái lắc cho P, T, N, T, Â, P, Minh D đặt cược từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Còn Thanh D được B đưa tiền xâu khi nhà cái có bão nhà cái sẽ chia cho Thanh D ½ tiền thắng được của ván bão đó. Hình thức đánh bạc với tên gọi lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền cụ thể như sau: B sử dụng 03 hột xí ngầu, mỗi hột xí ngầu có 6 mặt, mỗi mặt có chấm màu đen, số lượng chấm màu đen ở mỗi mặt khác nhau và tăng dần (1, 2, 3, 4, 5, 6), mỗi chấm màu đen tương đương 01 nút (điểm). B bỏ 03 hạt xí ngầu vào 01 dụng cụ lắc là 01 đĩa sứ và 01 nắp đậy hình tròn lắc xong để xuống chiếu bạc. Quy định bên tay trái của cái là xỉu, tay phải là tài, các đối tượng đặt tiền vào bên đã chọn tài hoặc xỉu. Người làm cái mở nắp đậy ra tính tổng số nút trên 03 mặt xí ngầu trên cùng từ 3 đến 10 là xỉu, còn từ 11 đến 18 là tài. Nếu người làm cái lắc ra tài, người đặt tài thắng, ngược lại là thua. Ngoài ra, còn trường hợp “Bão” (03 mặt ngửa của xí ngầu có số điểm giống nhau), nếu là “Bão tài” (tổng số điểm của 03 mặt ngửa hột xí ngầu từ 11 trở lên) thì nhà cái hòa tiền cửa tài và thắng tiền cửa xỉu, nếu “Bão xỉu” (tổng số điểm từ 10 trở xuống) thì nhà cái hòa tiền cửa xỉu và thắng tiền cửa tài. Số tiền thắng thua dựa trên số tiền đặt cược với nhà cái. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 24/12/2020 thì T, P, Minh D, T, N, Â bị Công an xã An Tây bắt quả tang còn T, Thanh D, B chạy bỏ trốn, cùng ngày Công an bắt được Thanh D và B. Ngày 30/12/2020, T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát đầu thú.

Số tiền mang theo dùng để đánh bạc, thắng thua của từng đối tượng cụ thể như sau:

- Nguyễn Thanh B: mang theo số tiền 4.000.000 đồng, khi vào làm cái P rủ B và T mỗi người hùn 5.000.000 đồng để làm cái sau đó chia đều tiền thắng, thua thì B và T đồng ý. Tấn đưa cho B số tiền 5.000.000 đồng hùn làm cái và cho Bình mượn 1.000.000 đồng, còn P chưa đưa tiền cho B. Khi Công an đến bắt Bình đang cầm số tiền bỏ chạy trong đêm té ngã và rơi hết số tiền trên người, do đó không xác định được thắng thua bao nhiêu. Tổng số tiền B dùng vào mục đích đánh bạc là 5.000.000 đồng.

- Nguyễn Lộc T: mang theo số tiền 19.000.000 đồng. T đưa cho B mượn 1.000.000 đồng, còn 18.000.000 đồng T dùng để đánh bạc. T đưa cho B 5.000.000 đồng hùn làm cái còn 13.000.000 đồng T bỏ vào trong túi quần đang mặc dùng để đặt cược. Khi bị bắt T thua 2.000.000 đồng. Công an thu giữ trong người T 11.000.000 đồng. Tổng số tiền T dùng vào mục đích đánh bạc là 18.000.0000 đồng.

- Nguyễn Thanh T: mang theo số tiền 400.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc 400.000 đồng, khi đánh bạc T đánh thua hết 400.000 đồng nên T mượn của B 1.000.000 đồng tiếp tục sử dụng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt T đánh thua hết 1.400.000 đồng. Tổng số tiền T dùng vào mục đích đánh bạc là 1.400.000 đồng.

- Nguyễn Thanh D: mang theo số tiền 700.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, Thanh D thua hết 300.000 đồng, Thanh D bỏ số tiền 400.000 đồng còn lại vào túi quần đang mặc, được Minh D cho 200.000 đồng thu từ tiền xâu. Công an thu giữ 600.000 đồng trong người Thanh D. Tổng số tiền Thanh D dùng vào mục đích đánh bạc là 700.000 đồng.

- Nguyễn Thị N: mang theo số tiền 200.000 đồng, sử dụng 200.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, N thua hết 200.000 đồng. Tổng số tiền N sử dụng vào mục đích đánh bạc là 200.000 đồng.

- Trần Hoàng Â: mang theo số tiền 700.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt,  thua hết 700.000 đồng. Tổng số tiền  sử dụng vào mục đích đánh bạc là 700.000 đồng - Đỗ Thanh P: mang theo số tiền 3.600.000 đồng dùng để đánh bạc. P lấy ra 3.500.000 đồng để đặt cược, còn 100.000 đồng để trong túi quần. Ngoài ra P còn thỏa thuận hùn 5.000.000 đồng với T và B để B làm cái nhưng mới chỉ thỏa thuận bằng miệng chưa đưa tiền cho T, B. Khi bị bắt, P thua hết 3.500.000 đồng, còn 100.000 đồng bị thu giữ. Tổng số tiền P sử dụng vào mục đích đánh bạc là 3.600.000 đồng.

- Nguyễn Hoàng Đạt Th: mang theo số tiền 6.000.000 đồng, lấy ra 1.000.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc, còn 5.000.000 đồng Th bỏ vào trong túi quần Th không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Khi Công an đến bắt Th sợ bỏ chạy ném số tiền trên ở đâu không rõ nên không xác định được thắng thua. Tổng số tiền Th dùng vào mục đích đánh bạc là 1.000.000 đồng.

- Nguyễn Minh D là người không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng Minh D là người rủ rê các đối tượng đánh bạc đến nhà và cho mượn địa điểm để các đối tượng đánh bạc sát phạt với nhau mục đích để thu tiền xâu. Các đối tượng đánh bạc vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 23/12/2020 đến khi Công an bắt Minh D đã thu ba lần tiền xâu do B làm cái thắng “bão” với số tiền 1.100.000 đồng (trong đó: lần thứ nhất 200.000 đồng, lần thứ 2: 500.000 đồng, lần thứ 3: 400.000 đồng). Tổng số tiền Minh D thu lợi bất chính là 1.100.000 đồng, số tiền này Minh D cho Thanh D 200.000 đồng, bỏ chạy tiêu xài cá nhân hết 450.000 đồng còn là 450.000 đồng tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Công an. Tổng số tiền Minh D dùng vào mục đích đánh bạc là 1.100.000 đồng.

Tổng số tiền Nguyễn Lộc T, Đỗ Thanh P, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hoàng Đạt Th, Nguyễn Minh D dùng vào mục đích đánh bạc 16.200.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 97/CT-VKSBC ngày 02 tháng 06 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N từ 08 đến 10 tháng tù. Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh P từ 10 đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng. đồng. đồng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Lộc T từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Đạt Th từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh D từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 Xử phạt bị cáo Trần Hoàng  từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh D từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền dùng để đánh bạc là 16.200.000 đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Minh D nộp 900.000 đồng thu lợi bất chính sung công quỹ Nhà nước.

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bộ tài xỉu và 01 chiếc chiếu sợi có kích thước (1,5x1,65m).

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát.

Các bị cáo có ý kiến: Thống nhất với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, thừa nhận có hành vi đánh bạc vào ngày 24/12/2020 và bị bắt quả tang.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 24/12/2020 tại nhà của Nguyễn Minh D tại ấp An Thành, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương các bị cáo Nguyễn Lộc T, Đỗ Thanh P, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hoàng Đạt Th đã có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc “tài xỉu”. Bị cáo Nguyễn Minh D dùng nhà cho các bị cáo khác đánh bạc và thu tiền xâu được 1.100.000 đồng. Số tiền thu giữ trên chiếu bạc 4.500.000 đồng, thu giữ số tiền 11.000.000 đồng của Nguyễn Lộc T, thu giữ số tiền 100.000 đồng của Đỗ Thanh P, thu giữ số tiền 600.000 đồng của Nguyễn Thanh D là tiền các bị cáo dùng để đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc với nhau là 16.200.000 đồng Hành vi của các bị cáo Nguyễn Lộc T, Đỗ Thanh P, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hoàng Đạt Th, Nguyễn Minh D đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Do đó Cáo trạng số 97/CT-VKS ngày 02/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố các bị cáo Nguyễn Lộc T, Đỗ Thanh P, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hoàng Đạt Th, Nguyễn Minh D về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Vụ án với tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều trực tiếp tham gia thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên mức độ phạm tội cũng như số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là khác nhau, do vậy Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào nhân thân, mức độ tham gia và số tiền của từng bị cáo dùng đánh bạc để quyết định hình phạt đối với từng bị cáo.

Bị cáo Minh D đề xướng rủ rê bị cáo B, sau đó bị cáo B là người rủ rê các bị cáo còn lại tham gia đánh bạc. Bị cáo B làm cái, số tiền bị cáo dùng để đánh bạc là 5.000.000 đồng. Bị cáo Minh D dùng nhà cho các bị cáo đánh bạc và thu tiền xâu được 1.100.000 đồng. Bị cáo T dùng số tiền đánh là 18.000.000 đồng, trong đó có 5.000.000 đồng bị cáo hùn với B để làm cái và 13.000.000 đồng dùng để đặt cược. Bị cáo Đạt Th dùng 1.000.000 đồng dùng để đánh bạc và cũng tham gia tích cực, bị cáo Th có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt hành chính đưa vào cơ sở giáo dục vì có hành vi gây thương tích cho người khác. Do đó mức hình phạt của các bị cáo B, T, Minh D, Đạt Th phải cao hơn các bị cáo còn lại.

Bị cáo P dùng 3.600.000 đồng tham gia đánh bạc, bị cáo tham gia tích cực. Bị cáo có tiền án về tội “Đánh bạc” và chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Điều này cho thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm. Do đó cần có hình phạt nghiêm đối với bị cáo.

Bị cáo N dùng 200.000 đồng để đánh bạc. Tuy nhiên bị cáo có tiền án về tội “Đánh bạc” và chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Do đó cần có hình phạt nghiêm đối với bị cáo.

Bị cáo T dùng 1.400.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Thanh D dùng 600.000 đồng dùng để đánh bạc, bị cáo  dùng 700.000 đồng dùng để đánh bạc. Điều này cho thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, tích cực tham gia do vậy cần có mức hình phạt nghiêm đối với các bị cáo.

Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng. Đánh bạc là tệ nạn xã hội thường dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng khác cho xã hội. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi đánh bạc là trái pháp luật nhưng vì muốn có tiền một cách nhanh chóng mà không phải lao động nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Do vậy, cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo, đồng thời góp phần ngăn chặn tệ nạn cờ bạc đang ngày càng gia tăng tại địa phương, giữ gìn trật tự công cộng và phòng ngừa tội phạm chung.

Các bị cáo B, T, T, Minh D, Thanh Dương, Â, Th phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít ngiêm trọng, do vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Các bị cáo P, N có tiền án chưa được xóa án tích về tội “Đánh bạc” lại tiếp tục phạm tội, do vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; các bị cáo T, B, T, Minh D, Thanh D, Â, T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo P và N phạm tội với tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 16.200.000 đồng - Cần buộc bị cáo Nguyễn Minh D nộp 900.000 đồng thu lợi bất chính sung công quỹ Nhà nước.

- Cần tịch thu tiêu hủy 01 bộ tài xỉu và 01 chiếc chiếu sợi có kích thước (1,5x1,65m).

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Lộc T, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Minh D, Nguyễn Hoàng Đạt Th phạm tội “đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Lộc T 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh D 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Đạt Th 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh D 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Trần Hoàng  25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố các bị cáo Đỗ Thanh P và Nguyễn Thị N phạm tội “đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh P 10 (mười) tháng tù.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 08 (tám) tháng tù.

Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày bắt vào thi hành án được khấu trừ vào thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/12/2020 đến ngày 02/01/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 16.200.000 đồng - Buộc bị cáo Nguyễn Minh D nộp 900.000 đồng (chín trăm ngàn đồng) thu lợi bất chính sung Ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ tài xỉu và 01 chiếc chiếu sợi có kích thước (1,5x1,65m).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát).

(Theo Lệnh thanh toán ngày 13/7/2021 của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh Bến Cát).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Lộc T, Đỗ Thanh P, Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Trần Hoàng Â, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hoàng Đạt Th, Nguyễn Minh D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 115/2021/HS-ST

Số hiệu:115/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về