Bản án về tội đánh bạc số 11/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Lưu Thị Kim L1 (tên gọi khác: Xệ), sinh năm 1966; Nơi cư trú: Số 4/3, Đường Phạm Văn N, khu phố M, thị trấn Bến L, huyện Bến L, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lưu Hồng C (chết) và bà Đinh Thị C (chết); Bản thân có chồng tên Lý Ngọc H (chết) và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1987 và nhỏ nhất sinh năm 2005; Tiền sự: không có; tiền án: 01 Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2019/HS-ST ngày 31/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đã xử phạt bị cáo Lưu Thị Kim L1 số tiền 40.000.000đồng về tội “đánh bạc”, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2021 cho đến nay (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị Kim Ph1, sinh năm 1971 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp N, xã Nhựt Ch, huyện Bến L, tỉnh Long An.

2. Ông Phạm Văn H1, sinh năm 1978 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Số 13/3/3, Quốc lộ 1A, khu phố C, thị trấn Bến L, huyện Bến L, tỉnh Long An.

3. Bà Nguyễn Thị O1, sinh năm 1969 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Số 69, Đường Phạm Văn N, khu phố M, thị trấn Bến L, huyện Bến L, tỉnh Long An.

4. Bà Thi Thị Mỹ L1, sinh năm 1971 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp 1A, xã An Th, huyện Bến L, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 05/4/2020, Lưu Thị Kim L1 có một tiền án về tội “Đánh bạc”, chưa được xóa án tích cùng với Nguyễn Thị Kim Ph1, Thi Thị Mỹ L1, Phạm Văn H1 đến nhà của bà Nguyễn Thị O1 tại địa chỉ số 69, đường Phạm Văn Ngũ, khu phố 5, thị trấn Bến Lức, tỉnh Long An. Tại đây L1, Ph1, L1 và H1 rủ nhau chơi đánh bài tứ sắc thắng thua bằng tiền, còn O1 cung cấp bài và lấy tiền xâu. Mỗi người tham gia chơi đặt tiền từ 20.000đồng đến 40.000đồng, nếu thắng trơn (thắng bình thường) thì mỗi người thua 20.000đồng, còn thắng quan (có 4 quân bài giống nhau) thì mỗi người thua 40.000đồng và cứ 5 ván bài thì đặt xâu 01 lần với số tiền 5.000đồng thắng trơn và 10.000đồng thắng quan. Lúc này, L1 bỏ ra 1.500.000đồng, Ph1 800.000đồng, H1 500.000đồng và L1 1.000.000đồng đặt trên chiếu bạc dùng để đánh bài. L1, Ph1, L1 và H1 đánh bài liên tục đến 15 giờ 30 phút cùng ngày thì lực lượng Công an thị trấn Bến Lức bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 3.800.000đồng và 12 bộ bài tứ sắc (trong đó 02 bộ bài tứ sắc đã qua sử dụng và 10 bộ bài tứ sắc chưa sử dụng). Quá trình điều tra, L1 bỏ trốn khỏi địa phương, đến 17/9/2021 thì bị bắt theo lệnh truy nã.

Bị cáo Lưu Thị Kim L1 khai tại tòa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu. Hành vi của bị cáo bị truy tố về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là đúng tội bị cáo, không oan.

Tại Bản Cáo trạng số 108/CT-VKSBL ngày 29/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Lưu Thị Kim L1 về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức vẫn giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lưu Thị Kim L1 phạm tội “Đánh bạc”; áp dụng khoản 1 Điều 321; khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lưu Thị Kim L1 từ 06 tháng đến 09 tháng tù;

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động chính của gia đình, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên đề nghị căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự, không phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 12 bộ bài tứ sắc (trong đó có 02 bộ bài tứ sắc đã qua sử dụng và 10 bộ bài tứ sắc chưa sử dụng); Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 3.800.000đồng;

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

[2] Xét hành vi của bị cáo: Bị cáo Lưu Thị Kim L1 khai nhận tại tòa, khoảng 12 giờ 00 phút ngày 05/4/2020, bị cáo cùng với Nguyễn Thị Kim Ph1, Thi Thị Mỹ L1, Phạm Văn H1 chơi đánh bạc bằng hình thức chơi bài tứ sắc thắng thua bằng tiền tại nhà bà Nguyễn Thị O1 ngụ tại số 69, đường Phạm Văn N, khu phố M, thị trấn Bến L, huyện Bến L. Mỗi người tham gia chơi đặt tiền từ 20.000đồng đến 40.000đồng, nếu thắng trơn (thắng bình thường) thì mỗi người thua 20.000đồng, còn thắng quan (có 4 quân bài giống nhau) thì mỗi người thua 40.000đồng và cứ 5 ván bài thì đặt xâu 01 lần với 5.000đồng nếu thắng trơn và 10.000đồng nếu thắng quan. Bị cáo bỏ ra số tiền 1.500.000đồng, bà Ph1 bỏ ra số tiền 800.000đồng, ông H1 bỏ ra số tiền 500.000đồng, bà L1 bỏ ra số tiền 1.000.000đồng đặt trên chiếu bạc dùng để đánh bài thì bị lực lượng Công an thị trấn Bến Lức bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 3.800.000đồng. Lời khai nhận tội này của bị cáo tại tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người liên quan và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo L1 là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng với động cơ mục đích vụ lợi, bị cáo cùng với các đối tượng Ph1, L1, H1 tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền. Số tiền thu giữ trên chiếu bạc 3.800.000đồng là chưa đủ định lượng để cấu thành tội đánh bạc. Tuy nhiên, bản thân bị cáo có một tiền án về tội “đánh bạc” chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc với lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ là tình hình trật tự công cộng tại địa phương, là mầm móng của các loại tội phạm khác. Do đó, hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bản thân bị cáo là lao động chính của gia đình, chồng mất sớm, phải nuôi 03 người con nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét hình phạt: Hành vi trái pháp luật của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo có một tiền án về tội đánh bạc nhưng không chịu nhìn nhận hành vi của mình mà lại tiếp tục đánh bạc, thể hiện sự xem thường pháp luật. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng, nghiêm khắc và cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, khi lượng hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của bị cáo là sai trái để xử phạt bị cáo mức án vừa có tính chất răn đe, vừa thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù là phù hợp với tính chất của vụ án và phù hợp quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động chính của gia đình, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự, không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, - Tịch thu tiêu hủy 12 bộ bài tứ sắc (trong đó 02 bộ bài tứ sắc đã qua sử dụng và 10 bộ bài tứ sắc chưa qua sử dụng) là công cụ phạm tội;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 3.800.000đồng sử dụng vào mục đích đánh bạc.

[7] Về hành vi của đối tượng liên quan: Đối với Nguyễn Thị Kim Ph1, Phạm Văn H1, Thi Thị Mỹ L1 có hành vi đánh bạc và Nguyễn Thị O1 có hành vi gá bạc. Tuy nhiên, số tiền thu giữ từ chiếu bạc 3.800.000đồng là chưa đủ định lượng và các đối tượng này chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức không xử lý hình sự là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Lưu Thị Kim L1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lưu Thị Kim L1 phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Lưu Thị Kim L1 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 17/9/2021.

Căn cứ khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Lưu Thị Kim L145 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (là ngày 27/01/2022) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 12 (mười hai) bộ bài tứ sắc, trong đó 02 bộ bài tứ sắc đã qua sử dụng và 10 bộ bài tứ sắc chưa qua sử dụng;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 3.800.000đồng;

(vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức đang giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/12/2021).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lưu Thị Kim L1 phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về