Bản án về tội đánh bạc số 11/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SA THẦY, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 04/08/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công Kh vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2021/TLST- HS ngày 22/6/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HS, ngày 21 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. LÊ V L; tên gọi khác: không, sinh năm: 1978, tại Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT: Thôn Măng L, xã Ng B, thành phố K T, tỉnh Kon Tum; Chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã ID, huyện I H’Dr, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 06/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Con ông Lê Văn D, sinh năm: 1952 (đã mất) và bà Lê Thị T, sinh năm: 1954; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2021 đến ngày 29/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh - có mặt tại phiên toà.

2. VI V H; tên gọi khác: không, sinh năm - 1985, tại Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Đội X, thôn I H, xã M R, huyện S Thầy, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Con ông Vi Văn Th và bà Lương Thị H; Bị cáo có vợ là Vi Thị L và 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2021 đến ngày 29/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh - có mặt tại phiên toà.

3. LÊ M KH; tên gọi khác: không, sinh năm - 1989, tại Quảng Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Đội X, thôn I H, xã M R, huyện S Thầy, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Con ông Lê Minh Kh và bà Phùng Thị H; Bị cáo có vợ là Lê Thị L Gi và 01 con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2021 đến ngày 29/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh - có mặt tại phiên toà.

4. LÀNH V TH; tên gọi khác: không, sinh năm: 1985, tại Lạng Sơn; Nơi ĐKHKTT: Thôn 4, xã T C, huyện Đ T, tỉnh Kon Tum; Chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã ID, huyện I H’Dr, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 04/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Con ông Lành Văn C, sinh năm 1961 (đã chết) và bà Lường Thị Ng, sinh năm 1954; Bị cáo có vợ là Ma Thị S, sinh năm 1989 và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2021 đến ngày 29/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh - có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo LÀNH V TH: Bà Nguyễn Thúy Hằng - Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Kon Tum - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Sa Thầy truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 03 giờ 00 ngày 28/03/2021 sau khi cùng uống rượu với nhau xong, LÊ V l hỏi LÀNH V TH có chơi đánh bài không thì Th đồng ý. Sau đó L gọi điện thoại hỏi Vi Văn H có chơi đánh bài không thì H đồng ý, lúc này H đang chơi bi a (tại đội 7, thôn Ia Ho, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy) với LÊ M KH, vì vậy H rủ Kh cùng chơi đánh bài thì Kh đồng ý. Tại quán bi a, H và Kh đã mua nước và bài để phục vụ cho quá trình đánh bạc. Khi vừa ra khỏi quán H, Kh gặp L, Th đang đi bộ đến, Kh rủ về nhà mình đánh bài cho gần thì tất cả đồng ý rồi cùng đi đến nhà Kh tại đội 7, thôn Ia Ho, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy. Tại đ ây L, Th, H, Kh đã cùng nhau thỏa thuận, thống nhất chơi đánh bài ăn tiền bằng hình thức chơi tố liêng, tiền cược của mỗi người chơi khi vào ván (gọi là tiền gà) là 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), tiền tố cao nhất là 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Nếu ai thắng ván trước thì ván sau bỏ thêm vào 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), như vậy tiền gà của mỗi ván là 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Ngoài ra trong quá trình chơi người nào tố thắng từ 300.000đ - 500.000đ thì trích ra 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) bỏ vào tiền xâu dùng để mua đồ ăn, nước uống và bài để chơi, việc trích ra số tiền 50.000đ để bỏ vào tiền xâu thì không phải ván nào cũng vậy, chỉ ván nào người chơi thắng ván đó và đang thắng tiền thì mới trích ra còn người nào đang thua thì không cần bỏ, việc bỏ tiền xâu do những người chơi tự nguyện bỏ ra. Khi tham gia đánh bạc L, H, Th mang theo số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) và Kh mang theo số tiền 2.600.000đ (hai triệu sáu trăm nghìn đồng) để sử dụng vào mục đích đánh bạc.

Đến khoảng 11 giờ 00 cùng ngày khi L, Th, H, Kh đang cùng chơi đánh bạc thì bị lực lượng công an huyện Sa Thầy bắt quả tang thu giữ số tiền trên chiếu bạc là 7.900.000đ (bảy triệu chín trăm nghìn đồng), trong đó: tiền ván bài các đối tượng đang chơi dở là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để chính giữa các đối tượng trên chiếu bạc, số tiền trên chiếu bạc để dưới chân L là 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng), số tiền trên chiếu bạc để dưới chân Kh là 3.450.000đ (ba triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), số tiền trên chiếu bạc đ ể dưới chân H là 2.650.000đ (hai triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng), số tiền trên chiếu bạc để dưới chân Th là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và thu giữ số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) trên kệ bếp cạnh chiếu bạc các đối tượng đang chơi là tiền xâu c ác đối tượng trích ra để mua đồ ăn nước uống và bài trong quá trình đánh bạc.

Kiểm tra, thu giữ trên người LÊ M KH số tiền 21.600.000đ (hai mươi mốt triệu sáu trăm nghìn đồng) và 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu đen, nhãn hiệu SamSung, đã qua sử dụng ; LÊ V l số tiền 4.500.000đ (bốn triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu xanh đen, nhãn hiệu Oppo, đã qua sử dụng ; Vi Văn H 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu đen, nhãn hiệu Nokia, đã qua sử dụng.

Tại bản cáo trạng số:10/KS-ĐT ngày 20 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sa Thầy truy tố các bị cáo Vi Văn H, LÊ V l, LÀNH V TH, LÊ M KH về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17; điểm i, s khoản 1 Điều 51, , Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo L, H, Th; áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Kh: Tuyên phạt bị cáo LÊ V l từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo LÊ M KH từ 10 (mười) đến 13 (mười ba) tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo Vi Văn H từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo LÀNH V TH từ 9 (chín) đến 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam cho các bị cáo . Về khấu trừ thu nhập: Do các bị cáo không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình nên miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

Về án phí: Đề nghị buộc các bị cáo LÊ V l, LÊ M KH phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo Vi Văn H, LÀNH V TH

Người bào chữa cho bị cáo LÀNH V TH: Bà Nguyễn Thúy Hằng - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Kon Tum phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với bản cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát truy tố bị cáo LÀNH V TH phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Cũng hoàn toàn thống nhất với tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đã áp dụng cho bị cáo. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn Kh báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng , bị cáo không có không tiền án tiền sự, có nhân thân tốt nên xử phạt bị cáo 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo biết việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sa Thầy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sa Thầy, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Các bị cáo không ai có ý kiến gì và cũng không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp p háp.

[2]Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thể hiện:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 28/3/2021 tại đội X, thôn I H, xã M R, huyện S Thầy, tỉnh Kon Tum, công an huyện Sa Thầy phát hiện, lập biên bản phạm tội quả tang Vi Văn H, LÊ V l, LÀNH V TH, LÊ M KH đang chơi đánh bạc trái phép bằng hình thức chơi tố liêng, ăn thua với nhau bằng tiền Việt Nam đồng với tổng số tiền thu trên chiếu bạc và số tiền thu giữ trên kệ bếp cạnh chiếu bạc được sử dụng vào mục đích đánh bạc là 8.600.000 đồng (Tám triệu sáu trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận cùng nhau chơi bài với mục đích được thua bằng tiền mà không được bất kỳ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Hành vi của các bị cáo Vi Văn H, LÊ V l, LÀNH V TH, LÊ M KH đã phạm vào tội “ Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sa Thầy truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới trật tự, nếp sống văn minh của xã hội, gây ảnh hưởng xấu đời sống hàng ngày của nhân dân trên địa bàn. Đánh bài tú lơ khơ hình thức tố liêng được thua bằng tiền là một tệ nạn xã hội bị nhà nước ta nghiêm cấm bởi lẽ người bị thua bạc sẽ ảnh hưởng xấu tới cuộc sống của bản thân họ và gia đình họ, đồng thời có nguy cơ gây ra nhiều tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo L, Kh, H, Th đều có đủ nhận thức để biết rằng việc đánh bạc trái pháp luật thì sẽ bị Pháp luật xử lý. Nhưng vì động cơ mong muốn kiếm tiền một cách nhanh chóng, trái pháp luật đã cùng nhau đánh bạc, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử phạt các bị cáo mức án, tương xứng với tính c hất mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, vừa để giáo dục, cải tạo các bị cáo biết tôn trọng pháp luật, vừa để răn đe phòng ngừa chung. Các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm giản đơn, không có sự chuẩn bị, bàn bạc phân công nhau từ trước nên vai trò các bị cáo là như nhau.

Xét về tính chất mức độ thì LÊ V l là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác cùng thực hiện, nên bị cáo L phải chịu mức án cao hơn ba bị cáo còn lại.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giả m nhẹ trách nhiệm hìn h sự và nhân thân của các bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo H, L, Th và Kh đều thành khẩn Kh báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo LÊ M KH được Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2017 đến năm 2018 góp phần vào sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà LÊ M KH được hưởng.

- Xét thấy, các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình, nghề nghiệp của các bị cáo là làm nông, thu nhập thấp, không ổn định, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú, lý lịch cụ thể rõ ràng, nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo các bị cáo sớm trở thành công dân tốt có ích cho xã hội và biết tôn trọng pháp luật.

[5] Các vấn đề khác:

* Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ:

- Đối với số tiền bị giữ trên chiếu bạc là 7.900.000đ (bảy triệu chín trăm nghìn đồng) và 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) là số tiền xâu có được do các bị cáo thắng tự nguyện bỏ ra mỗi ván 50.000 đồng. Đây là số tiền mà các bị cáo dùng vào mục đích để đánh bạc và do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước .

- Đối với số tiền thu giữ trên người của bị can LÊ V l là 4.500.000đ (bốn triệu năm trăm nghìn đồng); Tiền trên người của bị can LÊ M KH là 21.600.000đ (hai mươi mốt triệu sáu trăm nghìn đồng). Quá trình điều tra xác định LÊ V l và LÊ M KH không sử dụng số tiền trên vào mục đích đánh bạc. Công an huyện Sa Thầy đã trả lại số tiền trên cho chủ sở hữu hợp pháp là bị cáo LÊ V l và LÊ M KH vì vậy HĐXX không xem xét.

- 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu đen, nhãn hiệu SamSung, đã qua sử dụng (của LÊ M KH).

- 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu xanh đen, nhãn hiệu Oppo, đã qua sử dụng (của LÊ V l).

- 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu đen, nhãn hiệu Nokia, đã qua sử dụng (của Vi Văn H).

Thấy rằng, các tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên cần trả lại trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

- Đối với 03 (ba) bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng ; 01 (một) chiếu nhựa kích thước 1.4m x 2m. Xét thấy đây là vật chứng của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

* Về án phí: Các bị cáo LÊ V l, LÊ M KH phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo Vi Văn H, LÀNH V TH là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn án phí sơ thẩm cho bị cáo H và bị cáo Th.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo LÊ V l, LÀNH V TH, Vi Văn H, LÊ M KH phạm tội “Đánh bạc" - Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt:

LÊ V l 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ 33 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 99 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt 14 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục.

Bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Vi Văn H 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ 33 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 99 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục. Bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

LÀNH V TH 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ 33 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 99 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt 08 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục. Bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt:

LÊ M KH 10 (mười) tháng cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ 33 ngày tạm giữ, tạn giam bằng 99 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt 06 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan tổ chức , được giao giám sát, giáo dục. Bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo LÊ V l, LÀNH V TH cho xã I D, huyện I H’D, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục trong thời thi hành án.

Giao bị cáo Vi Văn H, LÊ M KH cho UBND xã M r, huyện S Th, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án.

Các bị cáo là lao động chính trong gia đình: Nghề nghiệp của các bị cáo là làm nông, thu nhập thấp, không ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tuyên tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền Việt Nam đồng: 8.600.000đ (Tám triệu sáu trăm nghìn đồng) hiện đang gửi tại tài khoản số: 3949.0.1047676.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sa Thầy, mở tại kho bạc Nhà nước huyện Sa Thầy.

- Tuyên tịch thu, tiêu hủy 03 (ba) bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng ; 01 (một) chiếu nhựa kích thước 1.4m x 2m.

- Trả lại cho LÊ M KH 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu đen, nhãn hiệu SamSung, đã qua sử dụng.

- Trả lại 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu xanh đen, nhãn hiệu Oppo, đã qua sử dụng cho LÊ V l.

- Trả lại 01 (một) điện thoại di động cảm ứng, màu đen, nhãn hiệu Nokia, đã qua sử dụng cho Vi Văn H.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa C ông an huyện Sa Thầy và Chi cụ c Thi hành án dân sự huyện Sa Thầy ngày 28 tháng 6 năm 2021) .

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc các bị cáo LÊ V l, LÊ M KH, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm. Riêng bị cáo Vi Văn H, LÀNH V TH là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; 332; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (04/8/2021 ) để xin xét xử theo trình tự phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 11/2021/HS-ST

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sa Thầy - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về