Bản án về tội đánh bạc số 109/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ R G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 109/2022/HS-ST NGÀY 08/04/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 08 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố R G, tỉnh Kiên Giang tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 160/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Thị Mỹ A, sinh năm 1982; Nơi sinh: R G - Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú: Số 63, đường N H S, phường V T V, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở hiện nay: Số 478/28/16, đường N T T , khu phố 3, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Bán vé số; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ T4 H và bà Phan Thị H1; Có chồng: Lão Văn Đ; Con: 01 người, sinh năm 1998; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 30/11/2020, bị Công an phường V L xử phạt 1.500.000 đồng, về hành vi Đánh bạc, hiện chưa đóng phạt, chưa được xóa tiền sự. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, được tại ngoại cho đến nay.

2. Họ và tên: Danh Trường Y, sinh ngày 23/11/1992; Tên gọi khác: Lâm Trường Y; Nơi sinh: R G - Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Số 328/26, đường N Q, khu phố 1, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lâm T4 T và bà Thị L; Có vợ: Lê Thị T1; Con: 01 người, sinh năm 2021; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 21/12/2020, bị Công an phường V L xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, hiện chưa đóng phạt, chưa được xóa tiền sự; Nhân thân: Ngày 28/11/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố R G xử phạt 13 tháng tù, về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Ngày 24/01/2012, chấp hành xong hình phạt, đương nhiên xóa án tích do khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Ngày 11/5/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố R G xử phạt 02 năm tù, về tội Cố ý gây thương tích. Ngày 09/12/2016 chấp hành xong hình phạt, hiện đã xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2021 cho đến nay.

(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa) 

* Người làm chứng:

+ Võ Thị Cẩm L, sinh năm 1999; Địa chỉ: Số 324/56 N Q, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

+ Lâm Hoàng S, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số 188/5 N T T , phường V B, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

+ Danh Thị Thu T2, sinh năm 2003; Địa chỉ: Số 324/32/7 N Q, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

+ Nguyễn Hoàng E, sinh năm 1979; Địa chỉ: Số 36 L C, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

+ Phạm Thị Thái H2, sinh năm 1986; Địa chỉ: ấp T Y, xã T L, huyện C T, tỉnh Kiên Giang.

+ Thị T3, sinh năm 1990; Địa chỉ: Số 328/43 N Q, phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

+ Trương Hoàng V, sinh năm 1979; Địa chỉ: Số 13/347 KP D O, phường V H, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

+ Trần Thị T4, sinh năm 1965; Địa chỉ: Ấp A T, xã V T, huyện G R, tỉnh Kiên Giang.

+ Trần Thị T5, sinh năm 1994; Địa chỉ: Số 499 N B K, phường V Q, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

+ Lê Thị Thúy P, sinh năm 1976; Địa chỉ: Số 7/15 N T, phường A B, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang.

(Tất cả người làm chứng đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 30/12/2020, tại trước nhà số 324/52 N Q, phường V L, thành phố R G, Công an phường V L bắt quả tang Danh Trường Y, Đỗ Thị Mỹ A, Thị T3, Lê Thị Thúy P, Trương Hoàng V, Nguyễn Hoàng E, Trần Thị T5, Trần Thị T4, Phạm Thị Thái H2 và Danh Thị Thu T2 đang có hành vi đánh bạc với hình thức lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền. Thu giữ tại chiếu bạc 440.000 đồng và nhiều dụng cụ dùng để đánh bạc.

Qua điều tra xác định, sòng bạc tại trước nhà số 324/52 N Q, phường V L (nhà bỏ trống không có người ở) do Võ Cẩm L tổ chức từ khoảng tháng 9 năm 2020 với hình thức lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền. L bỏ tiền ra để làm cái và thuê Lâm Hoàng S và Danh Trường Y lắc tài xỉu. Dụng cụ lắc tài xỉu do S chuẩn bị và mỗi lần làm cái lắc tài xỉu, S và Y được L cho từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng. Sòng bạc được tổ chức từ khoảng 12 giờ đến khoảng 16 giờ mỗi ngày, trung bình có khoảng 10 người đến tham gia chơi đánh bạc. Phương thức chơi là người làm cái dùng 03 hột xí ngầu, mỗi hột có sáu mặt, mỗi mặt đều có nút thứ tự từ 01 đến 06, 03 hột xí ngầu để trong một cái dĩa và có nấp đậy. Khi lắc nếu điểm số trên mặt ba hột xí ngầu cộng lại từ 4 đến 10 thì bên xỉu ăn, còn số điểm từ 11 đến 17 thì bên tài ăn, tỷ lệ ăn thua là 1 ăn 1. Ngoài ra, người chơi còn đặt cụ thể vào từng con số nếu trúng thì tính theo tỷ lệ được quy định trước. Trường hợp nếu lắc được cả ba hột xí ngầu có cùng một mặt giống nhau gọi là “Bảo” trường hợp ba con giống nhau từ 01 đến 03 thì người lắc hòa với nhà xỉu, ăn nhà tài và ngược lại nếu ba con giống nhau từ 04 đến 06 thì người lắc hòa với nhà tài, ăn nhà xỉu. Ngày 30/12/2020, sòng tài xỉu được tổ chức từ khoảng 12 giờ. Lúc đầu do Lâm Hoàng S làm cái có khoảng 10 người đặt tụ, với số tiền đặt trên chiếu bạc mỗi ván từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, đến khoảng 14 giờ thì S nghỉ lắc và đưa lại cho Danh Trường Y tiếp tục lắc cho L. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày sòng bạc thì bị Công an bắt quả tang, có khoảng 10 người đánh bạc, thu giữ tại chiếu bạc 440.000 đồng.

Cụ thể hành vi từng người tham gia gá bạc và đánh bạc, như sau:

Đối với Võ Cẩm L: Vào khoảng tháng 9 năm 2020, L bắt đầu đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L tổ chức đánh bạc bằng hình thức lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền nhưng không liên tục. L bỏ tiền ra để làm cái và thuê Lâm Hoàng S và Danh Trường Y lắc tài xỉu. Mỗi lần chơi, L đem theo từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng làm vốn. Trong trời gian đánh bạc tại đây, L làm cái chủ yếu bị thua. Vào ngày 30/12/2020, L đem theo 1.500.000 đồng làm cái. Lúc đầu L thuê Lâm Hoàng S làm cái lắc tài xỉu cho khoảng 10 người chơi và L cũng ngồi cạnh bên giúp S làm vỹ. Người đặt thấp nhất 10.000 đồng cao nhất là 200.000 đồng và tổng số tiền đặt trên chiếu bạc mỗi ván từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. S làm cái được khoảng 20 ván thì L thua hết 1.000.000 đồng. Lúc này, L tiếp tục thuê Danh Trường Y thay S lắc tài xỉu. Y làm cái được khoảng 05 ván thì L thua hết tiền nên L đi về nhà định lấy tiền đến làm cái tiếp thì sòng bạc bị bắt quả tang.

Đối với Lâm Hoàng S: Vào khoảng tháng 9 năm 2020, được Võ Cẩm L thuê đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L làm cái lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền nhưng không liên tục. Mỗi lần lắc tài xỉu thắng thì L sẽ cho S từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng. Vào khoảng 12 giờ ngày 30/12/2020, S đem theo dụng cụ lắc tài xỉu đến nhà số 324/52 N Q làm cái lắc tài xỉu cho khoảng 10 người chơi và L cũng ngồi cạnh bên giúp S làm vỹ. Người đặt thấp nhất 10.000 đồng cao nhất là 200.000 đồng và tổng số tiền đặt trên chiếu bạc mỗi ván từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. S làm cái được khoảng 20 ván thì L thua hết 1.000.000 đồng thì S nghỉ đi về và đưa lại cho Danh Trường Y tiếp tục lắc. S lắc tài xỉu thuê cho L được khoảng 3 lần, thu lợi được khoảng 200.000 đồng.

Đối với Danh Trường Y: Vào khoảng tháng 9 năm 2020, được Võ Cẩm L thuê đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L làm cái lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền nhưng không liên tục. Mỗi lần lắc tài xỉu thắng thì L sẽ cho Y từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng. Vào khoảng 14 giờ ngày 30/12/2020, Y đến nhà số 324/52 N Q làm cái lắc tài xỉu cho khoảng 10 người chơi và L cũng ngồi cạnh bên giúp Y làm vỹ. Người đặt thấp nhất 10.000 đồng cao nhất là 200.000 đồng và tổng số tiền đặt trên chiếu bạc mỗi ván từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Y làm cái được khoảng 05 ván thì bị Công an bắt quả tang. Y lắc tài xỉu thuê cho L được khoảng 05 lần, thu lợi được khoảng 320.000 đồng. Ngày 21/12/2020, Danh Trường Y bị Công an phường V L xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, đến nay chưa đóng phạt.

Đối với Đỗ Thị Mỹ A: Vào khoảng 13 giờ ngày 30/12/2020, A đem theo 50.000 đồng đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu do S làm cái. A đặt mỗi ván 10.000 đồng, đặt được 05 ván thì thua hết tiền. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, A tiếp tục đem theo 50.000 đồng đến đặt tài xỉu do Y làm cái. A đặt mỗi ván 10.000 đồng đến 20.000 đồng, đặt được 04 đến 05 ván thì thua hết tiền nên ra ngoài ngồi chơi. Đến khoảng 14 giờ, 30 phút cùng ngày bị Công an bắt quả tang. Ngày 30/11/2020, Đỗ Thị Mỹ A bị Công an phường V L xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, đến nay chưa đóng phạt.

Đối với Danh Thị Thu T2: Khoảng 13 giờ 20 phút, ngày 30/12/2020, T2 đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu. Khi đi, T2 đem theo 1.850.000 đồng nhưng chỉ lấy ra 350.000 đồng đặt tài xỉu. T2 đặt được 07 ván, mỗi ván từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng và thua hết 50.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T2 bị Công an bắt quả tang và thu trên người T2 1.800.000 đồng.

Đối với Trương Hoàng V: Vào khoảng 14 giờ ngày 30/12/2020, V đem theo 300.000 đồng đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu do Y lắc. V đặt được 03 ván, mỗi ván từ 20.000 đồng đến 40.000 đồng và thua hết 100.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, V bị Công an bắt quả tang và thu trên người V 200.000 đồng.

Đối với Trần Thị T4: Vào khoảng 13 giờ ngày 30/12/2020, T4 đem theo 1.500.000 đồng đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu. T4 đặt được khoảng 05 đến 06 ván, mỗi ván từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng và thua hết 400.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T4 bị Công an bắt quả tang và thu trên người T4 1.100.000 đồng.

Đối với Trần Thị T5: Vào khoảng 14 giờ ngày 30/12/2020, T5 đem theo 50.000 đồng đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu. T5 đặt 01 ván với số tiền 50.000 đồng thì bị thua hết tiền nên ra ngoài ngồi chơi. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T5 bị Công an bắt quả tang.

Đối với Nguyễn Hoàng E: Vào khoảng 14 giờ 20 phút, ngày 30/12/2020, Hoàng E đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu. Khi đi, Hoàng E đem theo 1.350.000 đồng nhưng chỉ lấy ra 350.000 đồng đặt tài xỉu. Hoàng E đặt 01 ván với số tiền 100.000 đồng. Khi đang đợi kết quả thắng thua thì Hoàng E bị bắt quả tang và thu trên người Hoàng E 1.250.000 đồng.

Đối với Thị T3: Vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 30/12/2020, T3 đem theo 200.000 đồng đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu. T3 đặt 03 ván, mỗi ván từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng thì thua hết tiền. Sau đó T3 nghỉ chơi và đi xung quanh sòng bạc bán nước uống. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T3 bị bắt quả tang.

Đối với Phạm Thị Thái H2: Vào khoảng 14 giờ ngày 30/12/2020, H2 đem theo 200.000 đồng đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu. H2 đặt 05 ván, mỗi ván từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng thì thắng được 40.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, sòng bạc bị bắt quả tang và H2 đã ném tất cả số tiền có được xuống đất.

Đối với Lê Thị Thúy P: Vào khoảng 14 giờ ngày 30/12/2020, P đem theo 60.000 đồng đến trước nhà số 324/52 N Q, phường V L đặt tài xỉu. P đặt 03 ván, mỗi ván từ 20.000 đồng thì thua hết tiền. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, P bị bắt quả tang.

Ngày 05/01/2020, Danh Trường Y và Đỗ Thị Mỹ A bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G khởi tố cấm đi khỏi nơi cư trú. Trong quá trình điều tra, Y đã bỏ trốn nên bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G đã truy nã. Đến ngày 06/6/2021, Y bị bắt truy nã và tạm giam đến nay.

* Vật chứng và tài liệu, đồ vật đã thu giữ, gồm:

- Thu giữ tại chiếu bạc:

+ 01 (một) miếng bạt màu xanh trắng có ghi các con số và chữ “Tài Xỉu”.

+ 03 (ba) hột xúc xắc (xí ngầu), đã qua sử dụng.

+ Tiền Việt Nam 440.000 đồng (bốn trăm bốn chục nghìn đồng).

+ 01 (một) cái chén bằng sứ màu trắng rộng 09 cm, cao 2,5 cm.

+ 01 (một) cái hợp hình trụ, màu đỏ có dán băng keo màu đen, có chiều cao 04 cm, chiều ngang 6,5 cm.

- Thu giữ trên người các đối tượng:

+ Trần Thị T4: 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng).

+ Phạm Thị Thái H2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, số Imei 352019112523844 đã qua sử dụng.

+ Trần Thị T5: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen số Imei 353033/06/563734/4 đã qua sử dụng.

+ Danh Thị Thu T2: 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm ngàn đồng) + Danh Trường Y: 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) + Trương Hoàng V: 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng); 01 giấy chứng minh nhân dân tên Trương Hoàng V.

+ Danh Thị Duyên: 150.000 đồng (một trăm năm mươi ngàn đồng) + Nguyễn Hoàng E: 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng);

01 điện thoại di động nhãn hiệu Appo A5S màu đen, phiên bản CPH1912EX_11_A.42 đã qua sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số: 184/CT-VKSRG ngày 25/8/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố các bị cáo: Đỗ Thị Mỹ A và Danh Trường Y, về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Mỹ A mức án 12 tháng cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 5 Điều 328, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Danh Trường Y mức án 10 tháng 02 ngày tù, bằng thời hạn bị cáo đã bị tạm giam.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tài sản không liên quan đến vụ án Cơ quan điều tra Công an thành phố R G đã trả lại cho chủ sở hữu, gồm: Trả lại cho Danh Thị Thu T2: 1.500.000 đồng; Trương Hoàng V: 01 giấy chứng minh nhân dân; Nguyễn Hoàng E: 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Appo A5S màu đen, phiên bản CPH1912EX_11_A.42 và tiền Việt Nam 1.000.000 đồng; Danh Thị Duyên: 150.000 đồng; Trương Hoàng V: 200.000 đồng; Phạm Thị Thái H2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, số Imei 352019112523844 đã qua sử dụng; Trần Thị T5: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen số Imei 353033/06/563734/4 đã qua sử dụng.

- Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước tiền dùng vào việc đánh bạc và do đánh bạc mà có gồm:

Tiền Việt Nam 2.620.000 đồng (Hai triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng), trong đó tiền thu tại chiếu bạc là 440.000 đồng; Trần Thị T4 giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 1.110.000 đồng; Danh Thị T2 giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 300.000 đồng; Nguyễn Hoàng E giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 250.000 đồng; Trương Hoàng V giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 200.000 đồng; Danh Trường Y giao nộp tiền thu lợi bất chính là 320.000 đồng. Theo giấy nộp tiền vào kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 02/3/2021.

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy dụng cụ dùng vào việc đánh bạc, gồm:

+ 01 (một) miếng bạt màu xanh trắng có ghi các con số và chữ “Tài Xỉu”.

+ 03 (ba) hột xúc xắc (xí ngầu), đã qua sử dụng.

+ 01 (một) cái chén bằng sứ màu trắng rộng 09 cm, cao 2,5 cm.

+ 01 (một) cái hợp hình trụ, màu đỏ có dán băng keo màu đen, có chiều cao 04 cm, chiều ngang 6,5 cm.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Đỗ Thị Mỹ A và Danh Trường Y đều thừa nhận hành vi phạm tội Đánh bạc như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G đã truy tố. Các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và không có ý kiến gì khác.

Tại phần nói lời sau cùng các bị cáo Đỗ Thị Mỹ A và Danh Trường Y trình bày:

Các bị cáo đã nhận biết được hành vi của mình là sai trái và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố R G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa, các bị cáo Đỗ Thị Mỹ A và Danh Trường Y đã thừa nhận hành vi phạm tội đánh bạc của mình. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai nhận tội tại Cơ quan điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang; tài liệu, đồ vật thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc; nội dung bản Cáo trạng và phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được làm rõ tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Với động cơ tư lợi, sát phạt nhau nhằm mục đích lấy tiền, tài sản từ người thua bạc. Vào khoảng tháng 9 năm 2020, Võ Cẩm L bắt đầu tổ chức sòng bạc tại trước nhà số 324/52 N Q, phường V L, thành phố R G (nhà bỏ trống không có người ở), với hình thức lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền. L bỏ tiền ra để làm cái và thuê Lâm Hoàng S và Danh Trường Y lắc tài xỉu. Mỗi lần làm cái lắc tài xỉu, S và Y được L cho từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng. Sòng bạc được tổ chức từ khoảng 12 giờ đến khoảng 16 giờ mỗi ngày, trung bình có khoảng 10 người đến tham gia chơi đánh bạc. Vào khoảng 12 giờ ngày 30/12/2020 L đem theo 1.500.000 đồng tiếp tục thuê S và Y làm cái lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền với các con bạc. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi Y đang lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền cho các con bạc đặt cược thì bị Công an phường V L tiến hành bắt quả tang các đối tượng đang tham gia đánh bạc gồm: Võ Cẩm L, Danh Trường Y, Đỗ Thị Mỹ A, Thị T3, Lê Thị Thúy P, Trương Hoàng V, Nguyễn Hoàng E, Trần Thị T5, Trần Thị T4, Phạm Thị Thái H2 và Danh Thị Thu T2 nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật và thu giữ tiền trên chiếu bạc số tiền là 440.000.000 đồng. Tổng số tiền tham gia đánh bạc vào ngày 30/12/2020 được xác định là 4.650.000 đồng (bao gồm số tiền thu giữ tại chiếu bạc và số tiền từng người dùng để đánh bạc). Tuy nhiên, do Đỗ Thị Mỹ A và Danh Trường Y đã bị xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, chưa đóng phạt, chưa được xóa tiền sự mà còn vi phạm. Do đó, hành vi của các bị cáo Đỗ Thị Mỹ A và Danh Trường Y đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

Đối với các đối tượng gồm: Võ Cẩm L, Lâm Hoàng S, Thị T3, Lê Thị Thúy P, Trương Hoàng V, Nguyễn Hoàng E, Trần Thị T5, Trần Thị T4, Phạm Thị Thái H2 và Danh Thị Thu T2 có hành vi đánh bạc nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan điều tra đã lập hồ sơ xử phạt hành chính theo đúng quy định của pháp luật, HĐXX miễn xét.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn bất chấp thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng; gây ảnh hưởng tiêu cực tới hạnh phúc gia đình và việc xây dựng nếp sống văn hóa mới trên địa bàn, làm tăng thêm sự phức tạp về tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo. Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, giữa các bị cáo không có sự phân công cụ thể hoặc cấu kết chặt chẽ với nhau trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Đối với bị cáo Danh Trường Y bị cáo là người được Võ Cẩm L thuê trực tiếp làm cái để Võ Cẩm L ăn thua với những người chơi khác và được Cẩm L cho tiền. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với bị cáo Đỗ Thị Mỹ A là người trực tiếp tham gia lắc tài xỉu do bị cáo Y làm cái và bị bắt quả tang. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của mình.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo A và Y không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo đúng sự thật về hành vi phạm tội của mình, thể hiện thái độ ăn năn hối cải nên các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Riêng đối với bị cáo Đỗ Thị Mỹ A phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ được áp dụng theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo Y đã tự nguyện giao nộp tiền thu lợi bất chính nên bị cáo có tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Về nhân thân: Bị cáo Y là người có nhân thân xấu.

[5] Sau khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của xã hội cho hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Xét thấy, bị cáo Danh Trường Y có tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2021 cho đến nay là 10 tháng 02 ngày. Tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo đã thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, thời gian bị tạm giam vừa qua cũng đủ để răn đe đối với bị cáo. Do đó, không cần thiết tiếp tục cách L bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, trả tự do bị cáo tại phiên tòa, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

Đối với bị cáo Đỗ Thị Mỹ A có 02 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, không cần thiết phải cách L bị cáo khỏi đời sống xã hội mà giao về cho gia đình và chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ răn đe, tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo, sửa đổi thành một công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát thành phố R G về tội danh, về điều luật áp dụng, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ thể hiện các bị cáo đều là những người lao động phổ thông, không có mức thu nhập và không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về các vấn đề khác:

[8.1] Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy dụng cụ dùng vào việc đánh bạc, gồm:

+ 01 (một) miếng bạt màu xanh trắng có ghi các con số và chữ “Tài Xỉu”.

+ 03 (ba) hột xúc xắc (xí ngầu), đã qua sử dụng.

+ 01 (một) cái chén bằng sứ màu trắng rộng 09 cm, cao 2,5 cm.

+ 01 (một) cái hợp hình trụ, màu đỏ có dán băng keo màu đen, có chiều cao 04 cm, chiều ngang 6,5 cm. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 128/QĐ-VKS, ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố R G.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền Việt Nam các bị cáo dùng vào việc phạm tội, gồm:

Tiền Việt Nam 2.620.000 đồng (Hai triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng), trong đó tiền thu tại chiếu bạc là 440.000 đồng; Trần Thị T4 giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 1.110.000 đồng; Danh Thị T2 giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 300.000 đồng; Nguyễn Hoàng E giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 250.000 đồng; Trương Hoàng V giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 200.000 đồng; Danh Trường Y giao nộp tiền thu lợi bất chính là 320.000 đồng. Theo giấy nộp tiền vào kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 02/3/2021. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 128/QĐ-VKS, ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố R G.

- Quá trình tố tụng, Cơ quan điều tra đã trả lại đồ vật, tiền Việt Nam không dùng vào việc phạm tội cho những người như sau: Danh Thị Thu T2: 1.500.000 đồng; Trương Hoàng V: 01 giấy chứng minh nhân dân; Nguyễn Hoàng E: 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Appo A5S màu đen, phiên bản CPH1912EX_11_A.42 và tiền Việt Nam 1.000.000 đồng; Danh Thị Duyên: 150.000 đồng; Trương Hoàng V:

200.000 đồng; Phạm Thị Thái H2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, số Imei 352019112523844 đã qua sử dụng; Trần Thị T5: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen số Imei 353033/06/563734/4 đã qua sử dụng.

Xét thấy, việc Cơ quan điều tra đã trả lại đồ vật, tiền Việt Nam không dùng vào việc phạm tội đúng theo quy định của pháp luật nên HĐXX miễn xét.

[9.2] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Đỗ Thị Mỹ A, Danh Trường Y, mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Thị Mỹ A và Danh Trường Y (Lâm Trường Y) phạm tội “Đánh bạc”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thị Mỹ A 12 tháng cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập cá nhân do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có nguồn thu nhập ổn định.

Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy Ban nhân dân phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Đỗ Thị Mỹ A cho Ủy Ban nhân dân phường V L, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 5 Điều 328, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Danh Trường Y (Lâm Trường Y) 10 (mười) tháng 02 (hai) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 06/6/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 08/4/2022 thì bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, trả tự do cho bị cáo, nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về tội khác.

3. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy dụng cụ dùng vào việc đánh bạc, gồm: 01 (một) miếng bạt màu xanh trắng có ghi các con số và chữ “Tài Xỉu”; 03 (ba) hột xúc xắc (xí ngầu), đã qua sử dụng; 01 (một) cái chén bằng sứ màu trắng rộng 09 cm, cao 2,5 cm; 01 (một) cái hợp hình trụ, màu đỏ có dán băng keo màu đen, có chiều cao 04 cm, chiều ngang 6,5 cm. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 128/QĐ-VKS, ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố R G.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền Việt Nam các bị cáo dùng vào việc phạm tội, gồm: Tiền Việt Nam 2.620.000 đồng (Hai triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng), trong đó tiền thu tại chiếu bạc là 440.000 đồng; Trần Thị T4 giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 1.110.000 đồng; Danh Thị T2 giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 300.000 đồng; Nguyễn Hoàng E giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 250.000 đồng; Trương Hoàng V giao nộp tiền dùng vào việc đánh bạc là 200.000 đồng; Danh Trường Y giao nộp tiền thu lợi bất chính là 320.000 đồng. Theo giấy nộp tiền vào kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 02/3/2021. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 128/QĐ-VKS, ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố R G.

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 6, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Các bị cáo Đỗ Thị Mỹ A, Danh Trường Y, mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

800
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 109/2022/HS-ST

Số hiệu:109/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về