Bản án về tội đánh bạc số 05/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

BN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 01/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 01 tháng 3 năm 2022 tại Phòng xử án Toà án nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2022/TLST- HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo: Ngô Văn K, sinh ngày 06/6/1967, tại TL, T.P HP.

Nơi cư trú: thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 7/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn T (đã chết) và bà Ngô Thị M (đã chết); có vợ và 03 con; tiền án: không; tiền sự: ngày 26/3/2021, bị Ủy ban nhân dân huyện Tiên Yên ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc và dùng nhà ở để chứa đánh bạc” xảy ra ngày 20/01/2021. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú" và "Tạm hoãn xuất cảnh" hiện tại ngoại. Có mặt tại phiên toà.

- Người tham gia tố tụng khác:

*Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1962.

Nơi cư trú: thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh; Có mặt.

2. Anh Vũ Văn K, sinh năm 1990.

Nơi cư trú: thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 20 giờ 30 phút ngày 25/11/2021, tại quán nước nhà bà Nguyễn Thị N thuộc thôn B, xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên, Công an xã Đồng Rui kiểm tra, phát hiện Ngô Văn K cùng Nguyễn Thị N, Vũ Văn K’ đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh “phỏm”. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 1.570.000 đồng; 28 lá bài tú lơ khơ. Ngoài ra, còn thu giữ 01 ĐTDĐ Iphone 6 màu trắng của Ngô Văn K và 01 ĐTDĐ Iphone 6 màu vàng của Vũ Văn K’.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Khoảng 20 giờ ngày 25/11/2021, K đến quán nước nhà chị N chơi và sau đó có anh Vũ Văn K’ đến quán nước. Tại quán có sẵn bộ bài tú lơ khơ, chị N rủ K, K’ chơi “phỏm” ăn tiền, cả hai đồng ý và chơi được 7, 8 ván bài thì bị Công an xã Đ kiểm tra, phát hiện. Hình thức đánh bạc như sau: Bộ bài gồm 36 lá bài tú lơ khơ (từ lá A đến lá 9), không dùng các lá bài 10, J, Q, K. Bộ bài chia đều làm 03 phần, mỗi phần 08 lá bài, người chia bài 09 lá bài, phần còn lại gọi là “nọc” để ở giữa. Người chia bài đánh trước ngược chiều kim đồng hồ, nếu người ngồi sau không ăn được lá bài sẽ bốc lá bài từ “nọc”, lần lượt cho đến hết. Người chơi ăn lá bài mà có thể kết hợp với lá bài đang nắm giữ tạo thành phỏm (một phỏm có 03 lá bài trở lên cùng chất liền nhau hoặc 03 lá bài trở lên cùng số). Kết thúc 04 vòng chơi, không ai có bài “Ù” thì hạ bài tính điểm, người có điểm thấp nhất là người thắng.

Quy định chơi bài: Sau mỗi ván bài, người thắng được 30.000 đồng (người về nhì thua 10.000 đồng; người về cuối thua 20.000 đồng). Người thắng bài “Ù” (bài có 02 bộ tứ quý bất kỳ, một sảnh dài 08 lá hoặc 02 sảnh mỗi sảnh có 03 lá bài trở lên) được 60.000 đồng (mỗi người còn lại thua 30.000 đồng); Người nào chơi để bài “cháy tức là không có phỏm” thì người thua phải cho người thắng 20.000 đồng.

Số tiền bỏ ra đánh bạc theo lời khai như sau: Ngô Văn K 300.000 đồng; Nguyễn Thị N hơn 800.000 đồng; Vũ Văn K’ 350.000 đồng và đều đặt ở dưới chiếu đến khi bị Công an kiểm tra, phát hiện.

Ti bản Cáo trạng số: 05/CT-VKS ngày 27/01/2022, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên đã truy tố bị cáo Ngô Văn K về tội “Đánh bạc”, quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật tố tụng Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Văn K từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và buộc bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần; miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Ngô Văn K; tuyên huỷ biện pháp ngăn chặn là Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh.

Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1.570.000 đồng theo phiếu nhập kho ngày 20/01/2022 giữa Công an huyện Tiên Yên với Kho bạc Nhà nước Tiên Yên.

Tch thu, tiêu hủy 28 lá bài tú lơ khơ.

Trả bị cáo Ngô Văn K 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng, gắn sim thuê bao số 0979.332.547.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên là đúng người, đúng tội; Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt, bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là đúng với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Trong giai đoạn điều tra bị cáo Ngô Văn K đều thành khẩn khai và thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Ti phiên toà, một lần nữa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như những bản khai tại giai đoạn điều tra và đều khẳng định việc đưa ra truy tố và xét xử bị cáo là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình.

Li khai nhận tội của bị cáo, tập hợp lại thấy phù hợp nhau; phù hợp với biên bản kiểm tra ngày 25/11/2021 của Công an xã Đ, huyện T lập hồi 20 giờ 30 phút, vật chứng thu giữ và còn phù hợp với lời khai của người làm chứng anh Vũ Văn K’ và chị Nguyễn Thị N; phù hợp với bản ảnh vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, từ đó Hội đồng xét xử đã có căn cứ xác định:

Khong 20 giờ ngày 25/11/2021, bị cáo K đến quán nước nhà chị Nguyễn Thị N chơi, sau đó có anh Vũ Văn K cũng đến quán nước. Tại quán có sẵn bộ bài tú lơ khơ, chị N rủ K, K’ chơi “phỏm” ăn tiền, cả hai đồng ý và chơi được 7 đến 8 ván bài thì bị Công an xã Đ kiểm tra, phát hiện.

Bị cáo đánh bạc với hình thức như sau: Bộ bài tú lơ khơ gồm 52 lá bài, nhưng lấy 36 lá bài (từ lá A đến lá 9), không dùng các lá bài 10, J, Q, K. Bộ bài chia đều làm 03 phần, mỗi phần 08 lá bài (phỏm 8 lá), người chia bài được 09 lá bài, phần còn lại gọi là “nọc” để ở giữa. Người chia bài đánh trước theo chiều ngược kim đồng hồ, người chơi kế tiếp có thể ăn hoặc không ăn lá bài này. Nếu người này không ăn thì sẽ phải bốc 1 lá bài từ bài nọc, thông thường người chơi sẽ ăn lá bài mà có thể kết hợp chúng với lá bài đang nắm giữ để tạo thành phỏm (Một phỏm có thể 03 lá hoặc 04 lá… lá bài cùng chất liền nhau: ví dụ: lá 2, 3, 4, 5 chất cơ thì tạo thành phỏm hoặc có 03 hoặc 04 lá 2 hoặc 3,… thì tạo thành phỏm). Chơi cứ tiến hành xoay vòng từ người này đến người khác cho đến hết vòng, 01 ván kết thúc theo 04 vòng. Nếu có bất kỳ người chơi nào ù thì ván bài kết thúc (Ù là khi trên bài có 02 bộ tứ quý bất kỳ hoặc một sảnh dài 08 lá hoặc 02 sảnh mỗi sảnh có từ 03 lá bài trở lên). Kết thúc 04 vòng chơi, không ai có bài “Ù” thì hạ bài tính điểm, người có điểm thấp nhất là người thắng.

Quy định chơi bài: Sau mỗi ván bài, người thắng được 30.000 đồng (người về nhì thua 10.000 đồng, người về cuối thua 20.000 đồng). Người thắng bài “Ù” (bài có 02 bộ tứ quý bất kỳ, một sảnh dài 08 lá hoặc 02 sảnh mỗi sảnh có 03 lá bài trở lên) được 60.000 đồng (mỗi người còn lại thua 30.000 đồng); Người nào chơi để bài “cháy tức là không có phỏm” thì người thua phải cho người thắng 20.000 đồng.

Ti phiên toà bị cáo K khai khi chơi bỏ ra khoảng 300.000 đồng; chị Nguyễn Thị N bỏ ra hơn 900.000 đồng; anh Vũ Văn K’ 350.000 đồng và đều đặt ở dưới chiếu đến khi bị Công an kiểm tra, phát hiện thu tại chiếu bạc số tiền 1.570.000 đồng và thu giữ toàn bộ vật chứng như nêu trên.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Ngưi nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Do ngày 20/01/2021 bị cáo K đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính là đánh bạc và dùng nhà ở của mình để chứa bạc và bị Ủy ban nhân dân huyện Tiên Yên ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự số 886/QĐ- XPVPHC ngày 26/3/2021. Vì vậy, hành vi đánh bạc lần này của bị cáo thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, chưa được xoá mà còn vi phạm.

Như vậy, với các chứng cứ nêu trên đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 25/11/2021, tại thôn B, xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên, bị cáo Ngô Văn K có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền với chị Nguyễn Thị N, anh Vũ Văn K’, bằng hình thức đánh “phỏm” được thua bằng tiền với tổng số tiền đánh bạc 1.570.000 đồng (Một triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng) thì bị Công an xã Đ, huyện T kiểm tra, phát hiện và thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi này của bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Đi với chị Nguyễn Thị N sử dụng địa điểm quán nước do mình quản lý để đánh bạc với bị cáo Ngô Văn K và anh Vũ Văn K’, nhưng số tiền thu tại chiếu bạc chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự. Ủy ban nhân dân huyện Tiên Yên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với chị Nguyễn Thị N và anh Vũ Văn K’ theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xét.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt trong nhân dân. Từ việc đánh bạc sát phạt được thua bằng tiền một cách bất hợp pháp gây thiệt hại về kinh tế của chính bản thân và gia đình bị cáo, bản thân bị cáo cũng nhận thức được điều này và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nhưng bị cáo không lấy đấy làm bài học mà vẫn phạm tội. Do vy, cần thiết phải xử lý nghiêm đối với bị cáo để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên cũng cần phải xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thấy:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tương ứng được quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét toàn diện nội dung vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Đến nay bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, có nơi cư trú rõ ràng; mức độ phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, xét thấy không cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội, mà chỉ cần phạt cải tạo không giam giữ và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng trở thành người có ích cho xã hội, cũng không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Bị cáo K không có nghề nghiệp, thu nhập gì ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo K.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Vật chứng vụ án: đối với số tiền 1.570.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc là tiền dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đi với 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng, gắn sim thuê bao số 0979.332.547 thu của bị cáo K, không liên quan đến tội phạm nên tuyên trả cho bị cáo K.

Đi với 36 lá bài tú lơ khơ lấy ra để đánh phỏm, nhưng khi thu giữ chỉ thu được 28 lá, còn 08 lá Cơ quan điều tra tiến hành truy tìm, nhưng không thấy nên không thu giữ được. Vì vậy, 28 lá bài này là vật dùng vào việc phạm tội, xét không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu, tiêu hủy.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử thấy đề nghị này phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố bị cáo Ngô Văn K phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn K 06 tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Ngô Văn K cho Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo K có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Đi trong việc giám sát, giáo dục. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Ngô Văn K.

Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Ninh nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Trưng hợp bị cáo K không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Bị cáo Ngô Văn K phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Huỷ biện pháp ngăn chặn là Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 10/2022/LCĐKNCT-TA ngày 25/02/2022 và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 10/2022/QĐ-TA ngày 25/02/2022 của Toà án nhân dân huyện Tiên Yên đối với bị cáo Ngô Văn K.

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1.570.000 đồng theo phiếu nhập kho ngày 20/01/2022 giữa Công an huyện Tiên Yên với kho bạc Nhà nước Tiên Yên.

Tịch thu, tiêu hủy 28 lá bài tú lơ khơ.

Trả bị cáo Ngô Văn K 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng, gắn sim thuê bao số 0979.332.547.

Tình trạng những vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng số 09/CCTHADS-BB ngày 17/02/2022 giữa Công an huyện Tiên Yên với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.

Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Văn K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về