Bản án về tội đánh bạc số 04/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 01/02/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 01 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2022/TLST-HS, ngày 22 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022/HSST-QĐ, ngày 12 tháng 01 năm 2023 đối với các bị cáo:

Họ và tên:

1/ Ngô Thị N, sinh ngày 08/9/1976, tại: N, tỉnh Sóc Trăng. Nơi đăng ký thường trú: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú hiện tại: khóm V, Phường C, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Mua bán; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Minh L (đã chết) và bà Nguyễn Thị S (đã chết); Có chồng và 02 con (lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2007); Tiền án: Không; Tiền sự: ngày 08/3/2021 bị Công an Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 25/QĐ-XPHC với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc trái phép (bài binh 6 lá) được thua bằng tiền”. Nhân thân: Không án tích. Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 22/8/2022 đến nay. Bị cáo có mặt.

2/ Lê Thị X N (Tên gọi khác L), sinh ngày 01/01/1965, tại: N, tỉnh Sóc Trăng. Nơi cư trú: ấp V, xã V, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Mua bán; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị H (đã chết); Có chồng và 02 con (lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1994); Tiền án:

Không; Tiền sự: ngày 08/3/2021 bị Công an Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 30/QĐ-XPHC với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc trái phép (bài binh 6 lá) được thua bằng tiền”. Nhân thân: Không án tích. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/8/2022 cho đến nay. Bị cáo vắng mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn N, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng bào chữa cho Lê Thị X N. (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Thị B, sinh năm 1965. (có mặt) Địa chỉ: Khóm V, Phường C, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng - Người làm chứng:

1/ Bà Triệu Phú Ái L, sinh năm 1964.(vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

2/ Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1961. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

3/ Bà Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1968. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

4/ Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1958. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

5/ Ông Lê Văn V, sinh năm 1972. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

6/ Bà Lê Thị X, sinh năm 1963. (vắng mặt) Địa chỉ: ấp V, xã V, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

7/ Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1991. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

8/ Bà Trần Thị T, sinh năm 1952. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

9/ Bà Đỗ Mộng K, sinh năm 1981. (vắng mặt) Địa chỉ: ấp V, xã V, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

10/ Bà Đỗ Thị Thu T, sinh năm 1966. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

11/ Ông Lê Thành T, sinh năm 1990. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

12/ Ông Trần Văn T, sinh năm 1989. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

13/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1993. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

14/ Bà Trịnh Tƣơng L, sinh năm 1981. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

15/ Bà Trần Thị T, sinh năm 1969. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

16/ Ông Trần Văn T, sinh năm 1976. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

17/ Bà Trƣơng Thị N, sinh năm 1971. (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: Vào lúc 13 giờ 20 phút, ngày 13/02/2022, Đội Điều tra tổng hợp Công an thị xã N phối hợp với Công an Phường 1, thị xã N kiểm tra, phát hiện tại nhà của bà Triệu Phú Ái L, địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng đang diễn ra đánh bạc ăn thua bằng tiền và tiến hành bắt giữ các đối tượng. Qua quá trình điều tra đã xác định được ông Lê Văn V, bà Nguyễn Thị G, bà Nguyễn Thị Lệ H, bà Lê Thị X, bà Đoàn Thị H, bị cáo Lê Thị X N, bị cáo Ngô Thị N tham gia đánh bạc. Hình thức dùng bài tây 52 lá, chơi loại bài binh 06 lá (bài binh Ấn Độ), 01 tụ làm cái còn lại 04 – 05 tụ đặt cược, những người còn lại ké thạnh, mỗi tụ đặt tiền thấp nhất 10.000 đồng và cao nhất là 100.000 đồng, do bà Ái Lan lấy tiền xâu. Riêng bà Trần Thị T và Nguyễn Thị N không tham gia đánh bạc chỉ ngồi gần đó xem.

Tang vật thu giữ gồm: số tiền 950.000 đồng của bị cáo Lê Thị X N; bị cáo Ngô Thị N 468.000 đồng; bà Triệu Phú Ái L 245.000 đồng; bà Nguyễn Thị G 510.000 đồng; bà Nguyễn Thị Lệ H 480.000 đồng; ông Lê Văn V 620.000 đồng; bà Nguyễn Thị N 102.000 đồng; bà Trần Thị T 1.000.000 đồng; bà Lê Thị X 700.000 đồng; số tiền trên chiếu bạc 450.000 đồng; 01 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 chiếc chiếu bằng dây lát. Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là: 4.178.000 đồng. Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N đã tiến hành xử lý tang vật thu giữ. Hiện chỉ còn giữ của bị cáo Ngô Thị N số tiền 468.000 đồng của; bị cáo Lê Thị X Nsố tiền 950.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào lúc 14 giờ ngày 20/3/2022, Đội Điều tra tổng hợp Công an thị xã N phối hợp với Công an Phường 1, thị xã N kiểm tra, phát hiện tại phần đất của ông Đỗ Hoàng Q, địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng đang diễn ra đánh bạc ăn thua bằng tiền và tiến hành bắt giữ các đối tượng. Qua quá trình điều tra đã xác định được bà Phan Thị B, bà Đỗ Thị Thu T, bà Nguyễn Thị T, ông Trần Văn T, ông Lê Thành T, bị cáo Lê Thị X N tham gia đánh bạc. Hình thức dùng bài tây 52 lá, chơi loại bài binh 06 lá (bài binh Ấn Độ), 01 tụ làm cái còn lại 04 – 05 tụ đặt cược, những người còn lại ké thạnh, mỗi tụ đặt tiền thấp nhất 10.000 đồng và cao nhất là 20.000 đồng. Riêng bà Lê Thị X, bà Trần Thị T, bà Đỗ Mộng K, ông Trịnh Tương L, ông Trần Văn T, bà Trương Thị N, bà Trần Thị T không tham gia đánh bạc chỉ ngồi gần đó xem.

Tang vật thu giữ gồm: số tiền 150.000 đồng của bị cáo Lê Thị X N; bà Đỗ Thị Thu T 799.000 đồng và 01 điện thoại hiệu Oppo; bà Nguyễn Thị Thùy 163.000 đồng; ông Lê Thành T 336.000 đồng; ông Trần Văn T 633.000 đồng; bà Trần Thị T 203.000 đồng và 01 điện thoại Nokia bàn phím; bà Trần Thị T 300.000 đồng và 01 điện thoại hiệu Iter; bà Lê Thị X 70.000 đồng; bà Trịnh Tương L 11.000 đồng và 01 điện thoại bàn phím; bà Trương Thị N 241.000 đồng; Trần Văn T 01 điện thoại hiệu Nokia bàn phím; số tiền trên chiếu bạc 10.000 đồng, số tiền xung quanh chiếu bạc 1.360.000 đồng, 01 chiếu lát dùng để ngồi đánh bạc, 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng). Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là: 1.779.000 đồng.

Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N đã tiến hành xử lý tang vật thu giữ. Hiện chỉ còn giữ của bị cáo Lê Thị X N150.000 đồng, số tiền trên chiếu bạc 10.000 đồng, số tiền xung quanh chiếu bạc 1.360.000 đồng, 01 chiếu lát dùng để ngồi đánh bạc, 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng).

Qua xác minh nhân thân những người tham gia đánh bạc xác định được. Đối với bị cáo Ngô Thị N bị Công an Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính số 25/QĐ-XPHC, ngày 08/3/2021 với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc trái phép (bài binh 6 lá) được thua bằng tiền” chưa thực hiện đóng phạt, đến ngày 13/02/2022 tiếp tục tham gia đánh bạc. Đối với bị cáo Lê Thị X N bị Công an Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng xử phạt hành chính số:

30/QĐ-XPHC, ngày 08/3/2021 với số tiền 1.500.000 về hành vi “đánh bạc trái phép (bài binh 6 lá) được thua bằng tiền” chưa thực hiện đóng phạt lại tiếp tục tham gia đánh bạc 02 lần vào các ngày 13/02/2022 và ngày 20/3/2022.

Cáo trạng số 03/CT-VKSNN ngày 20/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã N, tỉnh Sóc Trăng truy tố các bị cáo Ngô Thị N và Lê Thị X Nvề tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N giữ quyền công tố Nhà nước đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận cáo trạng truy tố các bị cáo Ngô Thị N và Lê Thị X N về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Đồng thời, đề nghị HĐXX xem xét và áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Về tình tiết tăng nặng: Đối với bị cáo Lê Thị X N trong các ngày 13/02/2022, ngày 20/3/2022 đã 02 lần thực hiện hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền nên thuộc tình tiết tăng nặng phạm tội hai lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội và tỏ ra biết ăn năn hối hận về hành vi của mình. Riêng bị cáo Ngô Thị N phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra các bị cáo có trình độ học vấn thấp, nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp. Từ đó đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngô Thị N xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù giam. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Thị X Nxử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù giam, thời hạn phạt tù kể từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu xung công quỹ nhà nước số tiền thu trên chiếu bạc 10.000 đồng, xung quanh chiếu bạc 860.000 đồng, của bị cáo Lê Thị X N 1.100.000 đồng, bị cáo Ngô Thị N số tiền 468.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếu lát dùng để ngồi đánh bạc, 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng). Trả lại cho bà Phan Thị B số tiền 500.000 đồng.

Đối với các đối tượng: bà Triệu Phú Ái L, bà Nguyễn Thị G, bà Nguyễn Thị Lệ H, ông Lê Văn V, bà Lê Thị X, bà Đoàn Thị H có tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền với bị cáo Ngô Thị N, Lê Thị X N vào ngày 13/02/2022; bà Phan Thị B, bà Nguyễn Thị Thùy, bà Đỗ Thị Thu T, ông Trần Văn T, ông Lê Thành T có tham gia đánh bạc cùng với bị cáo Lê Thị X N vào ngày 20/3/2022. Tuy nhiên, quá trình điều tra chứng minh các đối tượng nêu trên đã dùng số tiền đánh bạc không lớn, dưới định lượng 5.000.000 đồng. Đồng thời, qua tra cứu về lý lịch nhân thân những người này chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc, nên hành vi của họ chưa đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc. Do đó, Công an thị xã N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng nêu trên là có căn cứ. Riêng bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị N, ông Trần Văn T, bà Trịnh Tương L, bà Trần Thị T, bà Trương Thị N, bà Lê Thị X, bà Đỗ Mộng K, bà Trần Thị T không tham gia đánh bạc nên không xem xét xử lý là có cơ sở.

- Người bào chữa cho bị cáo Nhỏ Luật sư Nguyễn Văn Ninh trình bày: Thống nhất với bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo về tội danh, khung hình phạt và cũng nhất với các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng cho bị cáo Nhỏ. Đối với mức án Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù cũng phù hợp. Tuy nhiên, đề nghị HĐXX xét xem cho bị cáo là các lần thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do bị cáo chỉ tham gia đánh bạc với số tiền ít và chỉ tham gia trong dịp tết nguyên đán. Theo lý lịch bị cáo là lớp 1 tuy nhiên bị cáo chưa học xong lớp 01 nên thực tế bị cáo không biết chữ nên không nhận thức được pháp luật. Đồng thời, hiện sức khỏe của bị cáo yếu, mặc dù không có hồ sơ bệnh án hay kết luận của cơ quan chuyên môn nhưng qua quan sát mắt thường cũng nhận biết được bị cáo có sức khỏe yếu, đi lại khó khăn, nói chuyện không rõ ràng do ảnh hưởng của việc bị cáo bị bệnh tai biến. Bằng chứng là bị cáo không đủ sức khỏe thể tham dự được phiên tòa hôm nay. Từ đó, đề nghị HĐXX và áp dụng Điều 65 và khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử phạt bị cáo Lê Thị X N mức án 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

- Bị cáo Ngô Thị N trình bày: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã N, tỉnh Sóc Trăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt bị cáo Lê Thị X Nvà những người làm chứng: Bà Triệu Phú Ái L, bà Nguyễn Thị G, bà Nguyễn Thị Lệ H, bà Đoàn Thị H, ông Lê Văn V, bà Lê Thị X, bà Nguyễn Thị N, bà Trần Thị T, bà Đỗ Thị Thu T, ông Lê Thành T, ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị T, bà Trịnh Tương L, bà Trần Thị T, ông Trần Văn T, bà Trương Thị N, bà Đỗ Mộng K. Xét thấy, bị cáo Nhỏ có đơn xin xét xử vắng mặt, những người làm chứng nêu trên đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra và việc vắng mặt của họ không làm cản trở đến việc xét xử. Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290 và khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX quyết định xét xử vắng mặt bị cáo Nhỏ và những người làm chứng nêu trên.

[3] Đối với việc xác định tư cách tham gia tố tụng, xét thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bà Phan Thị B thừa nhận số tiền 1.360.000 đồng là của bà trong lúc bỏ chạy làm rớt. Trong đó, số tiền bà dành mua đồ cá nhân là 500.000 đồng, số tiền còn lại 860.000 đồng là tiền hùng với bà Đỗ Thị Thu T đánh bài ăn. Do đó, HĐXX xác định lại tư cách tham gia tố tụng của bà Phan Thị B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[4] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như sau: khoảng 13 giờ 20 phút ngày 13/02/2022 tại nhà của bà Triệu Phú Ái L, địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng các bị cáo Ngô Thị N và bị cáo Lê Thị X N cùng với một số đối tượng khác tham gia đánh bài trái phép ăn thua bằng tiền với hình thức dùng bài tây 52 lá, chơi loại bài binh 06 lá (bài binh Ấn Độ) với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là: 4.178.000 đồng. Ngoài ra, vào khoảng 14 giờ, ngày 20/3/2021 tại phần đất của ông Đỗ Hoàng Q, địa chỉ: Khóm B, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng bị cáo Lê Thị X N cùng với một số đối tượng khác tham gia đánh bài trái phép ăn thua bằng tiền với hình thức dùng bài tây 52 lá, chơi loại bài binh 06 lá (bài binh Ấn Độ) với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là: 1.779.000 đồng. Lời thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo là phù hợp với các lời khai của những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa còn phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ. Xét thấy, các bị cáo có hành vi tham gia đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền nhưng dưới 5.000.000 đồng. Tuy nhiên, trước đó vào ngày 08/3/2021 bị cáo Nho bị Công an phường 1, thị xã N xử phạt vi phạm hành chính số 25/QĐ-XPHC với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc trái phép (bài binh 6 lá) được thua bằng tiền”, bị cáo chưa đóng phạt. Ngày 08/3/2021 bị cáo Xinh N bị Công an Phường 1 xử phạt hành chính số: 30/QĐ- XPHC với số tiền 1.500.000 về hành vi “đánh bạc trái phép (bài binh 6 lá) được thua bằng tiền”, bị cáo chưa đóng phạt. Đến các lần thực hiện hành vi phạm tội này các bị cáo chưa được xem là đã xóa tiền sự. Do đó, Cáo trạng 03/CT-VKSNN ngày 20/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã N, tỉnh Sóc Trăng truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan cho bị cáo, HĐXX chấp nhận.

[5] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về trật tự công cộng, làm mất an ninh trật tự ở địa phương, là một trong những nguyên nhân dẫn đến một số hệ lụy khác trong xã hội. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự. Đồng thời, các bị cáo cũng nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền là vi phạm pháp luật và đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi này. Nhưng các bị cáo xem thường pháp luật và cố tình thực hiện hành vi đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền. Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Nhỏ đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Xét thấy, bị cáo Nhỏ có một tiền sự về hành vi đánh bạc chưa được xóa, nhưng lại cố tình tham gia 02 lần đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền. Ngoài ra, bị cáo chưa thực hiện đóng phạt theo Quyết định xử phạt hành chính số: 30/QĐ-XPHC ngày 08/3/2021 của Công an Phường 1. Nên việc người bào chữa cho bị cáo Nhỏ đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên HĐXX không chấp nhận. Do đó, đối với hành vi của các bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo và cũng là phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội, nhất là trong thời điểm hiện nay loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng.

[6] Tuy nhiên, để cá thể hóa hình phạt của từng bị cáo cần xem xét hành vi phạm tội của từng bị cáo như sau:

[7] Xét hành vi của bị cáo Ngô Thị N, thì thấy: Bản thân bị cáo tham gia đánh bạc vào ngày 02/03/2021 bị Công an phường 1, thị xã N lập biên bản và đến ngày 08/3/2021 ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì bị cáo vẫn chưa thực hiện đóng phạt. Đến ngày 13/02/2022 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, bị cáo có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên đề nghị xem xét và áp dụng để giảm một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ và phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

[8] Xét hành vi của bị cáo Lê Thị X N, thì thấy: Bản thân bị cáo tham gia đánh bạc vào ngày 02/03/2021 bị Công an phường 1, thị xã N lập biên bản và đến ngày 08/3/2021 ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000. Tuy nhiên, sau khi nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì bị cáo vẫn chưa thực hiện đóng phạt. Đến ngày 13/02/2022 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trái phép ăn thu bằng tiền và bị bắt quả tang. Đến ngày 20/3/2022 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trái phép ăn thu bằng tiền. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Sau khi có quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị cáo lại 02 lần thực hiện hành vi đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền nên đây được xem là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điêm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo có trình độ học vấn thấp đây được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên và người bào chữa đề nghị xem xét và áp dụng để giảm một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ và phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền thu của bị cáo Lê Thị X N 02 lần tham gia đánh bạc là 1.100.000 đồng, bị cáo Ngô Thị N 468.000 đồng, số tiền thu trên chiếu bạc 10.000 đồng. Xét thấy, đây là số tiền mà các bị cáo cùng với các đối tượng dùng vào việc đánh bạc trái phép nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với vật chứng là chiếu lát dùng để ngồi đánh bạc và 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng). Xét thấy, đây là công cụ, phương tiện phạm tội đồng thời không còn giá trị sử dụng được nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với số tiền thu xung quanh khu vực đánh bạc tổng cộng là 1.360.000 đồng. Xét thấy, đây là số tiền của bà Phan Thị B trong lúc bỏ chạy làm rơi. Trong đó, chứng minh được số tiền 860.000 đồng là tiền bà Bông hùng với bà T đánh bạc nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Số tiền còn lại 500.000 đồng là tiền cá nhân của bà Bông không có liên quan đến đánh bạc nên trả lại cho bà Bông theo quy định tại khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự [10] Đối với các đối tượng tham gia đánh bạc với các bị cáo gồm: Triệu Phú Ái L, Nguyễn Thị G, Nguyễn Thị Lệ H, Lê Văn V, Lê Thị X, Đoàn Thị H có tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền với bị can Ngô Thị N, Lê Thị X N vào ngày 13/02/2022; Phan Thị B, Nguyễn Thị Thùy, Đỗ Thị Thu T, Trần Văn T, Lê Thành T có tham gia đánh bạc cùng với bị can Lê Thị X N vào ngày 20/3/2022. Tuy nhiên quá trình điều tra chứng minh các đối tượng nêu trên đã dùng số tiền đánh bạc không lớn (dưới định lượng 5.000.000 đồng) và qua tra cứu về lý lịch nhân thân những người này chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc, nên hành vi của họ chưa đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc. Vì vậy Công an thị xã N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng nêu trên là có căn cứ.

[11] Đối với các đối tượng tham gia đánh bạc với các bị cáo gồm: bà Triệu Phú Ái L, bà Nguyễn Thị G, bà Nguyễn Thị Lệ H, ông Lê Văn V, bà Lê Thị X, bà Đoàn Thị H, bà Phan Thị B, bà Nguyễn Thị T, bà Đỗ Thị Thu T, ông Trần Văn T, ông Lê Thành T. Xét thấy, qua quá trình điều tra, xác minh về nhân thân cũng như số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc là chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó, đối với hành vi phạm của các đối tượng nêu trên bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc theo vi phạm là có cơ sở theo quy định của pháp luật. Đối với bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị N, ông Trần Văn T, ông Trịnh Tương L, bà Trần Thị T, bà Trương Thị N, bà Lê Thị X, bà Đỗ Mộng K, bà Trần Thị T. Qua quá trình điều tra không chứng minh được những người này tham gia đánh bạc nên không xem xét xử lý là có cơ sở.

[12] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Riêng bị cáo Lê Thị X N thuộc hộ cận nghèo nên được miễn theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm đ khoản 1 Điều 32, Điều 38, Điều 50 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Ngô Thị N.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Thị N phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Ngô Thị N 05 (năm) tháng 10 (mười) ngày tù. Được khấu trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giam là 05 (năm) tháng 10 (mười) ngày. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.

Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Ngô Thị N.

2/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm đ khoản 1 Điều 32, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Thị X N.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị X N phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Lê Thị X N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/10/2022 và ngày 21/12/2022) - Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với số tiền thu tại chiếu bạc 10.000 đồng (mười ngàn đồng); số tiền thu xung quanh khu vực đánh bạc là 860.000 đồng (tám trăm sáu mươi ngàn đồng), số tiền của bị cáo Lê Thị X N 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng), số tiền của bị cáo Ngô Thị N 468.000 đồng (bốn trăm sáu mươi tám ngàn đồng) - Trả cho bà Phan Thị B số tiền 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng).

- Tịch thu tiêu hủy: Bài tây 01 bộ, loại bài tây 52 lá đã qua sử dụng; 01 loại chiếu lát dùng để ngồi đánh bạc.

4/ Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

+ Buộc bị cáo Ngô Thị N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

+ Bị cáo Lê Thị X N được miễn không phải chịu

5/ Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm

6/. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về