Bản án về tội đánh bạc (hình thức chơi bài binh xập xám) số 21/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: 09 đường Phú Hòa, Phường 07, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 194/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. A, sinh ngày 21 tháng 4 năm 1977, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường B, Phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: đường Đ, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông H (chết) và bà I; vợ K; 03 con L, sinh năm: 2001, M, sinh năm: 2005 và N, sinh năm: 2009; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/12/1995 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày xử sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” theo bản án số 1823/HSST; bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/7/2020 đến nay (có mặt).

2. O (tên gọi khác: Gà), sinh ngày 14 tháng 9 năm 1993, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ô, Phường Ơ, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: đường Q, Phường R, quận S, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông T và bà U; vợ Ư; 02 con V, sinh năm: 2016 và X, sinh năm: 2019; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/7/2020 đến nay (có mặt).

3. A2, sinh ngày 12 tháng 6 năm 1968, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường B2, Phường C2, quận D2, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đ2 đã chết và bà E2 (chết); vợ G2; 02 con H2, sinh năm: 1998 và I2, sinh năm: 2003; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/7/2020 đến nay (có mặt).

4. A3, sinh ngày 27 tháng 6 năm 1975, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường K2, Phường L2, quận M2, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông N2 (chết) và bà O2; chồng Ơ2; 03 con Ô2, sinh năm: 1999, P2, sinh năm: 2001 và Q2, sinh năm: 2012; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/7/2020 đến nay (có mặt).

5. A4, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1971, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường R2, Phường S2, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông U2 (chết) và bà Ư2; chồng V2; 02 con X2 sinh năm: 1998 và X3, sinh năm: 2006; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/7/2020 đến nay (có mặt).

- Người làm chứng:

+ Anh B3, sinh năm: 1978 Địa chỉ: đường B4, Phường B5, quận B6, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

+ Ông B7, sinh năm: 1970 Địa chỉ: đường B8, Phường B9, quận C3, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 20 phút ngày 22/7/2020, Đội Cảnh sát điều tra về trật tự xã hội Công an quận Tân Bình phối hợp với Công an Phường 03, quận Tân Bình tiến hành kiểm tra căn nhà số đường Đ, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang O, A2, A3 và A4 đang tham gia đánh bài ăn tiền dưới hình thức chơi bài binh xập xám, còn A đang tổ chức cho các con bạc đánh bài ăn tiền và thu tiền xâu. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 7.450.000 đồng và 700.000 đồng trong xô đựng tiền xâu, ngoài ra thu giữ trên người các đối tượng số tiền 8.300.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định được như sau: Vào khoảng đầu tháng 7 năm 2020, A sử dụng nhà số A5, A6, phường A7, quận A8 tổ chức cho các con bạc chơi bài binh xập xám ăn tiền để thu tiền xâu, thời gian chơi từ 12 giờ và kết thúc lúc 16 giờ cùng ngày. Để tổ chức cho các con bạc chơi, A bỏ tiền ra mua bộ bài tây, thảm để ngồi, chén, 03 cục xí ngầu, xô để đựng tiền xâu, quá trình các con bạc chơi thì A thường xuyên có mặt tại sòng bạc, khi con bạc thắng được 21 chi trong 1 ván thì phải bỏ tiền xâu là 50.000 đồng. Hình thức chơi như sau: Sử dụng bộ bài tây 52 lá, 04 người chơi tạo thành một sòng bài, mỗi người chơi được chia 13 lá bài để thành 3 chi: 3 quân bài cho chi đầu, 5 quân cho chi giữa, 5 quân cho chi cuối. Các chi phải được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp, từ chi cuối đến chi đầu (thứ tự từ cao đến thấp như sau: Mậu binh, thùng phá sảnh, tứ quý, cù lũ, thùng, sảnh, sám cô, thú, đôi, mậu thầu). Bài được ăn thua theo chi, mỗi chi là 50.000 đồng, nếu một người chơi bị thua cả 3 chi sẽ bị nhân đôi chi bị thua tương ứng với số tiền cược. Sau khi sắp xếp bài xong thì người chơi sẽ úp bài xuống để đợi những người chơi khác xếp bài, khi tất cả đã xếp xong thì đồng loạt mở bài lên, nếu không mậu binh hoặc binh lủng thì mỗi người sẽ so sánh từng chi với nhau, xét chi cuối (5 lá), sau đó chi giữa (5 lá), rồi đến chi đầu (3 lá).

A khai: Trưa ngày 22/7/2020, A đang tổ chức cho O, A2, A3 và A4 chơi bài ăn tiền bằng hình thức chơi bài binh xập xám tại nhà A địa chỉ đường Đ, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an đến kiểm tra bắt quả tang. Lúc này các con bạc đã chơi bài được khoảng hơn 20 ván, ăn thua mỗi chi là 50.000 đồng, thu tại chiếu bạc số tiền 7.450.000 đồng và 700.000 đồng trong xô đựng tiền xâu (trong đó A bỏ ra 500.000 đồng tiền lẻ để các con bạc đổi và 200.000 đồng thu tiền xâu của 04 ván các con bạc đã thắng trả). Từ đầu tháng 7/2020 đến khi bị bắt, mỗi ngày A thu lợi được từ 500.000 đồng đến 700.000 đồng, tổng số tiền thu được trong thời gian tổ chức đánh bạc khoảng 16.000.000 đồng.

O khai: O quen A do trước đây cả hai ở gần nhà nhau. Khoảng đầu tháng 7/2020, A cho O biết có tổ chức đánh bài binh xập xám ăn tiền tại nhà A. Khoảng 11 giờ 30 ngày 22/7/2020, O đến nhà A để chơi đánh bài binh xập xám ăn tiền, mang theo 4.000.000 đồng. O thắng nhiều nhất là 36 chi, số tiền thắng được là 1.800.000 đồng, ván Othua nhiều nhất là thua 10 chi tương đương thua 500.000 đồng, O đã bỏ tiền xâu vào xô màu hồng 03 lần, mỗi lần 50.000 đồng (tổng cộng là 150.000 đồng). Khi Công an kiểm tra bắt quả tang thì thu giữ trên chiếu bạc là 7.450.000 đồng (trong đó thu giữ tại vị trí chỗ phía trước mặt O ngồi là 2.500.000 đồng), thu tiền trong túi quần là 3.500.000 đồng, tổng số tiền O bị thu giữ là 6.000.000 đồng, đều là tiền dùng để đánh bạc. Ngày 22/7/2020, O đánh bạc thắng tổng cộng là 2.150.000 đồng, để vào xô tiền xâu của A 150.000 đồng, số tiền thắng còn lại là 2.000.000 đồng. Từ đầu tháng 7/2020 đến khi bị bắt, Ođến nhà A đánh bài khoảng 5-7 lần, thua khoảng 3.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng, Okhông nhớ rõ số tiền thắng thua của từng ngày.

A2 khai: A2 quen biết với A khi cả hai cùng làm bảo vệ vào giữa năm 2020, A2 đến nhà A nhiều lần và thấy có tổ chức chơi đánh bài ăn tiền. Vào khoảng 11 giờ 30 ngày 22/7/2020, A2 đi xe ôm đến nhà A để chơi đánh bài binh xập xám ăn tiền cùng với O, A3 và A4, A2 mang theo 5.000.000 đồng. Tất cả chơi được khoảng 20 ván, A2 không nhớ cụ thể thắng thua từng ván như thế nào, A2 chỉ nhớ có một ván bài binh xập xám, A2 thắng nhiều nhất là 21 chi số tiền thắng được là 1.050.000 đồng (có bỏ tiền xâu vào xô cho A là 50.000 đồng), ván A2 thua nhiều nhất là thua 12 chi tương đương thua 600.000 đồng. Từ khi bắt đầu chơi đến khi bị bắt A2 thua 1.000.000 đồng. Khi Công an vào kiểm tra bắt quả tang A2 bị thu giữ 2.700.000 đồng tiền trên chiếu bạc (tiền để ở trước chỗ A2 ngồi) là tiền dùng để đánh bạc và 1.300.000 đồng thu giữ trong túi quần là tiền sử dụng cá nhân của A2 không dùng vào việc đánh bạc. A2 đã đến nhà A chơi đánh bài ăn tiền được khoảng 06 lần và không nhớ số tiền thắng thua trong từng ngày là bao nhiêu.

A3 khai: A3 là hàng xóm gần nhà nên biết nhà A có tổ chức đánh bài ăn tiền. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/7/2020, A3 đến nhà của A để chơi đánh bài binh xập xám ăn tiền cùng A4, O và A2, A3 mang theo 2.000.000 đồng để đánh bạc. Chơi được khoảng 20 ván, A3 thắng nhiều nhất là 8 chi, số tiền thắng được là 400.000 đồng nên A3 chưa bỏ tiền xâu ván nào, ván A3 thua nhiều nhất là thua 11 chi tương đương thua 550.000 đồng, từ khi bắt đầu chơi đến khi bị bắt A3 thua 700.000 đồng. Khi bị bắt A3 bị thu giữ 1.300.000 đồng trên chiếu bạc (tiền để ở trước chỗ A3 ngồi) là tiền dùng để đánh bạc. A3 đến nhà A chơi đánh bài ăn tiền khoảng hơn 10 lần, không nhớ thắng hay thua.

A4 khai: A4 hay đi ngang qua nhà của A nên biết nhà A số 71/88/21A Nguyễn Bặc, Phường 3, quận Tân Bình có tổ chức đánh bài ăn thua bằng tiền. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/7/2020, A4 đến nhà A để chơi bài binh xập xám ăn tiền, A4 mang theo 4.950.000 đồng. Chơi khoảng trên 20 ván bài, A4 thắng nhiều nhất là 14 chi, số tiền thắng được là 700.000 đồng nên A4 chưa bỏ tiền xâu ván nào, ván A4 thua nhiều nhất là thua 12 chi tương đương thua 600.000 đồng. Khi Công an đến kiểm tra bắt quả tang, A4 bị thu giữ trên chiếu bạc 950.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc, thu trong túi quần A4 3.500.000 đồng là tiền sử dụng cá nhân không dùng vào việc đánh bạc. A4 đã chơi đánh bài ăn tiền tại nhà A được khoảng 05 lần trước khi bị bắt, tiền thắng thua A4 không nhớ.

Người làm chứng ông B7 và anh B3 khai: Vào ngày 22/7/2020, ông B7 và anh B3 đến nhà số 71/88/21A Nguyễn Bặc, Phường 3, quận Tân Bình để xem đánh bài ăn tiền. Tại đây ông B7 và anh B3 có thấy A3, A4, A2 và O đang chơi bài binh xập xám ăn thua bằng tiền, còn A đang quản lý việc đánh bài, số tiền ăn thua mỗi chi là 50.000 đồng, ai thắng được 21 chi sẽ trả xâu 50.000 đồng cho A.

* Vật chứng thu giữ của vụ án:

- Số tiền 16.450.000đ (Mười sáu triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng.

- 02 (hai) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, 01 (một) bộ bài tây 52 lá chưa qua sử dụng, 01 (một) tấm vải màu đen vàng có kích thước 1m9x1m5, 01 (một) tô sứ, 03 (ba) cục xí ngầu và 01 (một) xô bằng nhựa màu hồng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu bạc - đen có số seri: 359544019455249 kèm sim; một gói niêm phong bên trong có 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung có số IMEI 1: 355079/08/326100/3, IMEI 2: 355080/08/326100/1 bên ngoài có chữ ký, chữ viết của A và hình dấu mộc tròn của Công an Phường 03, quận Tân Bình.

- 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Airblade màu đen đỏ, biển số: 59P2 - X, số khung: 6329HZ270015, số máy: JF63E2324301.

- Một gói niêm phong bên trong có 01 (một) điện thoại di động Iphone X màu gold, số Imei: 357295092291488 bên ngoài có chữ ký, chữ viết của O và hình dấu mộc tròn của Công an Phường 03, quận Tân Bình.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen, IMEI 1: 354204109458109, IMEI 2: 354204109738104; một gói niêm phong bên trong có 01 (một) điện thoại di động Bee 3 màu đen, IMEI 1: 352705110173026, IMEI 2: 352705110173034 bên ngoài có chữ ký, chữ viết của A2 và hình dấu mộc tròn của Công an Phường 03, quận Tân Bình.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, IMEI 1: 352884103476124, IMEI 2: 352884103976123; sim 1: 0924.X375, sim 2: 0921.X.405.

- 01 (một) xe máy hiệu Nozza màu xanh, biển số: 59P1 - X, số khung: HLCN1DR10DY082632, số máy: 1DR1082636.

- Một gói niêm phong bên trong có 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, số IMEI 1: 355113090553472/01, IMEI 2: 355114090553470/01, sim số: 0933.X.118 bên ngoài có chữ ký, chữ viết của A4 và hình dấu mộc tròn của Công an Phường 03, quận Tân Bình.

Bản cáo trạng số 177/CTr-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo A, O, A2, A3 và A4 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận: Vào ngày 22/7/2020, A đứng ra tổ chức đánh bài trái phép với hình thức chơi là binh xập xám ăn thua bằng tiền cho 04 người chơi là O ,A2, A3 và A4 tại nhà số 71/88/21A Nguyễn Bặc, Phường 3, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

A cung cấp tấm vải, tô sứ, 03 hột xí ngầu, xô nhựa để phục vụ cho việc đánh bài ăn tiền, riêng chiếc xô là để tiền xâu cho A. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 7.450.000 đồng và 700.000 đồng tiền xâu. Tổng số tiền A, O, A2, A3 và A4 sử dụng để đánh bạc là 11.650.000 đồng. Hành vi của A, O, A2, A3 và A4 đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với A, O, A2, A3 và A4 về tội đánh bạc. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo A đã tự nguyện nộp tiền thu lợi bất chính, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo O, A2, A3 và A4 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt tiền bị cáo A từ 50.000.000đ (Năm mươi triệu) đồng đến 60.000.000đ (Sáu mươi triệu) đồng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35 và điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt tiền các bị cáo O, A2, A3 và A4 từ 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng đến 50.000.000đ (Năm mươi triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo quy định.

* Bị cáo tự bào chữa: Các bị cáo A, O, A2, A3 và A4 thừa nhận hành vi phạm tội của các bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã nêu, các bị cáo không bào chữa hay tranh luận gì với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

* Lời nói sau cùng của các bị cáo:

Bị cáo A: Bị cáo đã nhận thức được hành vi sai phạm của mình, bị cáo rất hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời, bị cáo hứa sẽ không tái phạm.

Bị cáo O: Hành vi phạm tội của bị cáo là sai, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo A2: Bị cáo hối hận và thấy xấu hổ, bị cáo hứa sẽ không tái phạm.

Bị cáo A3: Bị cáo phạm tội lần đầu, xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa sai.

Bị cáo A4: Nhận thấy hành vi đánh bạc là sai trái, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hứa sẽ không tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an quận Tân Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng với các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 22/7/2020, A đã có hành vi sử dụng địa điểm căn nhà số đường Đ, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu của mình tổ chức cho O, A2, A3 và A4 đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh bài binh xập xám được thua bằng tiền với tổng số tiền dùng đánh bạc là 11.650.000đ (Mười một triệu sáu trăm năm mươi nghìn) đồng để nhằm thu lợi bất chính. Do đó, các bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình truy tố các bị cáo theo tội danh, điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là những người có đủ khả năng nhận thức về mọi việc làm sai trái và sẽ bị xã hội lên án, pháp luật trừng trị nhưng chỉ vì ham mê cờ bạc với mục đích tư lợi nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Đánh bạc là một tệ nạn xã hội, là mầm mống dẫn đến nhiều loại tội phạm khác, gây bất ổn và trái với đời sống sinh hoạt lành mạnh của những người lao động chân chính nên cần thiết phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời cũng để bảo đảm đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về vai trò của từng bị cáo trong thực hiện hành vi đánh bạc: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo A với vai trò là người chủ mưu, rủ rê lôi kéo việc thực hiện tội phạm vừa là người giúp sức tích cực cho việc thực hiện tội phạm nên bị cáo giữ vai trò chính. Các bị cáo O, A2, A3 và A4 với vai trò là người thực hành trực tiếp thực hiện tội phạm, trong đó số tiền mỗi bị cáo dùng đánh bạc khác nhau. Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào mức độ tham gia và số tiền mỗi bị cáo dùng vào việc đánh bạc để xem xét, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm để quyết định mức hình phạt đối với mỗi bị cáo.

[5] Bị cáo A trước đây bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày xử sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” theo bản án số 1823/HSST ngày 15/12/1995. Khi thực hiện hành vi phạm tội này, bị cáo là người chưa đủ 16 tuổi (15 tuổi 04 tháng). Theo quy định tại khoản 7 Điều 91 và khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, trường hợp này bị cáo được coi là không có án tích và không tính để xác định tái phạm đối với bị cáo.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo A trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền 16.000.000đ (Mười sáu triệu) đồng là tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng các bị cáo O, A2, A3 và A4 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Xét thấy bị cáo A thu lợi số tiền không lớn, trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội, thể hiện thái độ bị cáo chấp hành pháp luật, bản thân có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo O, A2, A3 và A4 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội do thiếu hiểu biết về pháp luật, số tiền các bị cáo dùng đánh bạc không lớn, bản thân các bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc các bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong thời gian được tại ngoại các bị cáo A, O, A2, A3 và A4 luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo nên xét thấy không cần thiết phải buộc các bị cáo chấp hành hình phạt tù, chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ tác dụng răn đe, cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt vừa thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhưng vẫn đảm bảo được tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo không có nghề nghiệp hoặc là lao động tự do với mức thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn là lao động chính trong gia đình đang phải nuôi con nhỏ, bên cạnh đó đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[10] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo A khai nhận trong thời gian tổ chức đánh bạc tính đến thời điểm bị bắt, bị cáo thu lợi được khoảng 16.000.000đ (Mười sáu triệu) đồng. Xét đây là khoản tiền bị cáo thu lợi bất chính từ hành vi đánh bạc mà có nên cần buộc bị cáo nộp lại số tiền này để sung vào ngân sách nhà nước, được cấn trừ vào số tiền 16.000.000đ (Mười sáu triệu) đồng bị cáo tự nguyện giao nộp theo biên B7 thu số AA/2019/0069046 ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

[11] Về vật chứng:

[11.1] Cơ quan Công an thu giữ số tiền 11.650.000đ (Mười một triệu sáu trăm năm mươi nghìn) đồng là tiền các bị cáo dùng đánh bạc (trong đó có tiền xâu và tiền sử dụng để các con bạc đổi tiền xâu), căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[11.2] Đối với 02 (hai) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, 01 (một) bộ bài tây 52 lá chưa qua sử dụng, 01 (một) tấm vải màu đen vàng có kích thước 1m9x1m5, 01 (một) tô sứ, 03 (ba) cục xí ngầu và 01 (một) xô màu hồng là công cụ các bị cáo dùng vào việc đánh bạc, không có giá trị và không sử dụng được, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[11.3] Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu bạc - đen có số seri: 359544019455249 kèm sim và 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung có số IMEI 1: 355079/08/326100/3, IMEI 2: 355080/08/326100/1 là tài sản của bị cáo A, không dùng vào việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo A.

[11.4] Đối với 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Airblade màu đen đỏ, biển số: 59P2 - X, số khung: 6329HZ270015, số máy: JF63E2324301 là phương tiện bị cáo Odùng vào việc đi phạm tội, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[11.5] Đối với 01 (một) điện thoại di động Iphone X màu gold, số Imei: 357295092291488 là tài sản của bị cáo O, cần trả lại cho bị cáo O.

[11.6] Đối với số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn) đồng; 01 (một) điện thoại di động Nokia 106 màu đen, IMEI 1: 354204109458109, IMEI 2: 354204109738104 và 01 (một) điện thoại di động Bee 3 màu đen, IMEI 1: 352705110173026, IMEI 2: 352705110173034 là tài sản của bị cáo A2, không dùng vào việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo A2.

[11.7] Đối với 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen, IMEI 1: 352884103476124, IMEI 2: 352884103976123; sim 1: 0924.X375, sim 2: 0921.X.405 là tài sản của bị cáo A3, cần trả lại cho bị cáo A3.

[11.8] Đối với 01 (một) xe máy hiệu Nozza màu xanh, biển số: 59P1 - X, số khung: HLCN1DR10DY082632, số máy: 1DR1082636 là phương tiện bị cáo A4 dùng vào việc đi phạm tội, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[11.9] Đối với số tiền 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn) đồng và 01 (một) điện thoại di động Samsung màu đen, số IMEI 1: 355113090553472/01, IMEI 2: 355114090553470/01, sim số: 0933.X.118 là tài sản của bị cáo A4, không dùng vào việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo A4.

[12] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức án đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[13] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo A khai trước đó nhiều lần sử dụng căn nhà của mình để tổ chức cho một số đối tượng đánh bạc thắng thua bằng tiền để thu tiền xâu, nhưng do không xác định được những người tham gia đánh bạc cũng như số tiền dùng đánh bạc nên không có căn cứ xử lý A về hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc của những lần này.

[14] Bị cáo O, A2, A3 và A4 khai trước đó đã nhiều lần đến nhà A đánh bạc ăn tiền. Tuy nhiên, do không xác định được số tiền các bị cáo dùng đánh bạc nên không có căn cứ xử lý các bị cáo về hành vi đánh bạc của những lần này.

[15] Đối với B3 và B7. Qua điều tra xác định những người này chỉ đứng xem, không tham gia đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình không xử lý là có căn cứ.

[16] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng.

[17] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo A, O, A2, A3 và A4 phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 35; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt tiền bị cáo A 50.000.000đ (Năm mươi triệu) đồng.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt tiền bị cáo O 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu) đồng. Phạt tiền bị cáo A2 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu) đồng. Phạt tiền bị cáo A3 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng.

Phạt tiền bị cáo A4 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng.

2. Buộc bị cáo A nộp lại số tiền 16.000.000đ (Mười sáu triệu) đồng là khoản thu lợi bất chính để sung vào ngân sách nhà nước, được cấn trừ vào số tiền 16.000.000đ (Mười sáu triệu) đồng bị cáo đã tự nguyện giao nộp theo biên B7 thu số AA/2019/0069046 ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh). Bị cáo A đã nộp đủ.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

3.1. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 11.650.000đ (Mười một triệu sáu trăm năm mươi nghìn) đồng; 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Airblade màu đen đỏ, biển số: 59P2 - X, số khung: 6329HZ270015, số máy: JF63E2324301 và 01 (một) xe máy hiệu Nozza màu xanh, biển số: 59P1 - X, số khung: HLCN1DR10DY082632, số máy: 1DR1082636.

3.2. Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, 01 (một) bộ bài tây 52 lá chưa qua sử dụng, 01 (một) tấm vải màu đen vàng có kích thước 1m9x1m5, 01 (một) tô sứ, 03 (ba) cục xí ngầu và 01 (một) xô màu hồng.

3.3. Giao trả 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu bạc - đen có số seri: 359544019455249 kèm sim và 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung có số IMEI 1: 355079/08/326100/3, IMEI 2: 355080/08/326100/1 cho bị cáo A.

3.4. Giao trả 01 (một) điện thoại di động Iphone X màu gold, số Imei: 357295092291488 cho bị cáo O.

3.5. Giao trả số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn) đồng; 01 (một) điện thoại di động Nokia 106 màu đen, IMEI 1: 354204109458109, IMEI 2: 354204109738104 và 01 (một) điện thoại di động Bee 3 màu đen, IMEI 1: 352705110173026, IMEI 2: 352705110173034 cho bị cáo A2.

3.6. Giao trả 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen, IMEI 1: 352884103476124, IMEI 2: 352884103976123; sim 1: 0924.X375, sim 2: 0921.X.405 cho bị cáo A3.

3.7. Giao trả số tiền 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn) đồng và 01 (một) điện thoại di động Samsung màu đen, số IMEI 1: 355113090553472/01, IMEI 2: 355114090553470/01, sim số: 0933.X.118 cho bị cáo A4.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 3555 ngày 18 tháng 11 năm 2020 và Phiếu nhập kho vật chứng số 183/PNK ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh).

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Các bị cáo A, O, A2, A3 và A4 mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc (hình thức chơi bài binh xập xám) số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về