Bản án về tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản số 128/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 128/2022/HSST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/6/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 106/2022/HSST ngày 13/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 186 ngày 06/6/2022 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Đức T; Sinh ngày 15/3/1999; Nơi đăng ký HKTT: xóm 5, xã D, huyện D, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc:

Kinh; Tôn giáo: Tên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Xuân Tr; Con bà: Đậu Thị G; Vợ, con: chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 14/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 năm tù về tội “Cướp tài sản” (theo điểm d, khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009), chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/7/2020; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2021 cho đến nay; Có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Đăng T - Văn phòng luật sư Thái Hồng Hạnh thuộc Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An; Có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Đặng Trần Sỹ Q, sinh năm 1994; Địa chỉ: khối T, phường L, thành phố V, tỉnh N; Vắng mặt.

2. Chị Bùi Thị N, sinh năm 1975; Địa chỉ: khối V, phường Đ, thành phố V, tỉnh N; Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1979; Địa chỉ: xóm 7, xã N, thành phố V, tỉnh N; Vắng mặt.

4. Cháu Nguyễn Thị Mai L, sinh ngày 12/6/2006; Địa chỉ: xóm 10, xã Ng, thành phố V, tỉnh N; Vắng mặt. Người đại diện theo pháp luật: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985 (Mẹ của cháu L): Ủy quyền cho anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1979; Địa chỉ: xóm 7, xã Ng, thành phố V, tỉnh N; Vắng mặt.

5. Chị Phạm Thị N2, sinh năm 1990; Địa chỉ: xóm 7, xã Ng, thành phố V, tỉnh N; Vắng mặt.

6. Anh Thái Bảo T, sinh năm 2000; Địa chỉ: xóm N, xã Ng, huyện Th, tỉnh N; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 26/10/2021 đến ngày 28/11/2021, Nguyễn Đức T đã thực hiện 04 (bốn) vụ trộm cắp tài sản và 01 (một) vụ cướp tài sản trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 26/10/2021, Nguyễn Đức T đi bộ từ nhà trọ tại ngõ số 25, đường Nguyễn Chí Thanh, khối 11, phường Quán Bàu, thành phố Vinh đến các tuyến đường trên địa bàn thành phố Vinh mục đích tìm xe máy sơ hở để lấy trộm. Khi đi đến trước nhà số 102, đường Hồng Bàng, phường Lê Mao, thành phố Vinh, T thấy một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu vàng đen, biển số 37B1- 997.94 của anh Đặng Trần Sỹ Q dựng trên vỉa hè, quan sát thấy không có ai trông coi nên T lại dùng vam phá khóa ổ điện chiếc xe trên rồi lên xe nổ máy đưa về nhà trọ cất giấu.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 13 giờ ngày 22/11/2021, Nguyễn Đức T đi bộ từ nhà trọ đến các tuyến đường trên địa bàn thành phố Vinh mục đích tìm xe máy sơ hở để lấy trộm. Khi T đến trước ki ốt số 01, tòa C3B chung cư Đội Cung thuộc phường Đội Cung, thành phố Vinh, T thấy một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển số 37B2-379.94 của chị Bùi Thị N dựng trên vỉa hè không ai trông coi nên T lại dùng vam phá khóa ổ điện chiếc xe trên rồi lên xe nổ máy đưa về nhà trọ để cất giấu.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 20 giờ ngày 27/11/2021, Nguyễn Đức T điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển số 37B2-379.94 đi đến khu vực xã Nghi Phú, thành phố Vinh tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà anh Nguyễn Văn H có ốt bán quần áo ở tầng một, T dựng chiếc xe mô tô ngay bên cạnh, đi bộ vòng ra phía sau trèo lên sân thượng tầng ba nhà anh H, đột nhập vào trong đi xuống cầu thang vào một phòng ở tầng hai thì thấy một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus, màu hồng của cháu Nguyễn Thị Mai L (là cháu gái anh H) đang cắm sạc, T lấy và bỏ vào túi quần đang mặc. Sau đó, T quay lại sân thượng tầng ba rồi trèo xuống, đi bộ vòng ra phía trước ốt bán quần áo của anh H lấy trộm 03 (ba) chiếc áo khoác treo ở giá thì bị anh H phát hiện, hô hoán, T bỏ chạy vứt lại 03 (ba) chiếc áo khoác cùng chiếc xe mô tô, biển số 37B2-379.94.

Trên đường tẩu thoát đến khu vực chợ Nghi Phú (thuộc xóm 7, xã Nghi Phú, thành phố Vinh) phát hiện 01 (một) chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu đen có chìa khóa cắm trên xe của chị Phạm Thị N2 dựng ở lề đường, không có ai trông coi nên T lại mở khóa điện rồi điều khiển xe đi.

Khi đến khu vực xóm 10, xã Nghi Phú, thành phố Vinh, T thấy 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển số 37E1-657.00 của anh Thái Bảo T để trong sân nhà, không có ai trông coi, cửa cổng không khóa nên T để lại xe đạp điện ở ngoài vào lấy trộm chiếc xe mô tô này rồi dắt bộ đem về nhà trọ cất giấu.

Sau khi sự việc xảy ra, bị hại anh Nguyễn Văn H và anh Thái Bảo T đã đến Công an xã Nghi Phú trình báo sự việc, đồng thời giao nộp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển số 37B2-379.94 cùng chiếc ví da và chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu đen.

Vụ thứ tư: Vào khoảng 02 giờ ngày 28/11/2021, Nguyễn Đức T tiếp tục đi bộ đến nhà anh Nguyễn Văn H trèo lên sân thượng tầng ba đột nhập vào nhà mục đích tìm lại chiếc xe mô tô, biển số 37B2-379.94 cùng chiếc ví da để trong cốp xe, bên trong ví có 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Đức T, 01 (một) giấy tiêm phòng Covid-19 và số tiền 950.000 đồng (chín trăm năm mươi nghìn). Tìm không thấy chiếc xe mô tô và chiếc ví da, T vào bếp lấy 01 (một) con dao có cán dao bọc gỗ dài 13cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 27cm, trên lưỡi dao có hai lỗ thủng rồi ra khu vực bán quần áo ở tầng một lấy trộm 08 (tám) chiếc áo khoác các loại, 01 (một) chiếc quần dài thể thao bỏ vào túi ni lông mang lên sân thượng. Sau đó, T đi xuống tầng hai vào phòng cháu Nguyễn Thị Mai L và con anh H đang ngủ, dùng dao khống chế cháu L, tay trái T ôm bụng, tay phải cầm con dao dí vào cổ cháu L đưa xuống tầng một gọi vợ chồng anh H dậy uy hiếp, đe dọa nhằm đòi lại chiếc xe mô tô và chiếc ví da mà T để lại trước đó.

Do hoảng sợ, anh H quay lại đóng cửa phòng gọi điện thoại cho người thân rồi lấy một thanh inox và mở cửa ra để chống trả lại thì T kéo cháu L lên sân thượng, thả cháu L rồi lấy túi quần áo đã lấy trộm trước đó trèo xuống mái nhà tẩu thoát. Anh H cùng người dân hô hoán, đuổi theo đến khu vực hàng rào ngoài Bệnh viện Đa khoa Đông Âu, T vứt con dao lại rồi trèo lên mái tôn sát bờ rào thì bị người dân ném đá làm T ngã xuống dẫn đến bị thương tích. Nhận được tin báo, Công an xã Nghi Phú có mặt kịp thời lập biên bản sự việc, đồng thời đưa Nguyễn Đức T vào Bệnh viện Đa khoa 115 Nghệ An cấp cứu xử lý vết thương. Anh Nguyễn Văn H trình báo toàn bộ sự việc đồng thời giao nộp 11 (mười một) chiếc áo khoác các loại, 01 (một) chiếc quần dài thể thao và 01 (một) con dao bằng kim loại, cán dao bọc gỗ dài 13cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 27cm, trên lưỡi dao có hai lỗ thủng.

Đến 17 giờ 40 phút cùng ngày, Công an xã Nghi Phú đưa Nguyễn Đức T về trụ sở làm việc. Tại đây, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và biết đang bị cơ quan Công an điều tra nên Nguyễn Đức T xin đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên đồng thời giao nộp 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu vàng đen, biển số 37B1-997.94; 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển số 37E1-657.00.

Quá trình khám xét chỗ ở của Nguyễn Đức T tại khối 11, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh thu giữ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus, màu hồng đã qua sử dụng; 02 (hai) vam phá khóa hình chữ T, đầu vam làm bằng kim loại.

Tại kết luận định giá tài sản số 257/KL-ĐGTS ngày 02 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vinh kết luận:

“- Chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen, biển số 37B1-997.94, số máy 5C64-830443, số khung CY-830442 tại thời điểm định giá ngày 26/10/2021 có giá trị là 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm nghìn đồng);

- Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu đen bạc, biển số 37B2-379.94, số máy HC12E-5071425, số khung RLHHC1214DY071294 tại thời điểm định giá ngày 22/11/2021 có giá trị là 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng);

- Chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu đen tại thời điểm định giá ngày 27/11/2021 có giá trị là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng);

- Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển kiểm soát 37E1- 657.00, số máy JA39E1192211, số khung RLHJA391XKY327279 tại thời điểm định giá ngày 27/11/2021 có giá trị là 13.500.000 đồng (mười ba triệu năm trăm nghìn đồng);

- 02 (hai) chiếc áo khoác nam màu đen, chưa qua sử dụng tại thời điểm định giá ngày 27/11/2021 có giá trị là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng);

- 01 (một) chiếc áo khoác nam màu xanh rêu, chưa qua sử dụng tại thời điểm định giá ngày 27/11/2021 có giá trị là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng);

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus, màu hồng, có số Imei 355754073648076 tại thời điểm định giá ngày 27/11/2021 có giá trị là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng).

- Chiếc quần dài thể thao nhãn hiệu Adidas màu đen sọc trắng tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo khoác nữ màu đen, mũ có lông tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo khoác Jean nữ màu xanh tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo len nữ màu đen sọc caro trắng tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo khoác da màu nâu tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo len nữ màu đen có viền cổ và ống tay màu trắng tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo khoác da nữ màu đen có túi tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo khoác da nữ màu đen tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng);

- Chiếc áo khoác nam màu đen tại thời điểm định giá ngày 28/11/2021 có giá trị là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng);

Tổng cộng tài sản định giá là 32.400.000 đồng (ba mươi hai triệu bốn trăm nghìn đồng).” Tại bản cáo trạng số 124/VKS-HS ngày 11/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Nguyễn Đức T về các tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d, e, h khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d, e, h khoản 2 điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2, điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Đức T từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”; Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2, điều 51; điểm g, h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Đức T từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là từ 09 năm 03 tháng đến 10 năm tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo không tranh luận gì về phần tội danh, khung hình phạt mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không bổ sung lời bào chữa của Luật sư mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy, có cơ sở để kết luận:

Từ ngày 26/10/2021 đến ngày 28/11/2021, trên địa bàn thành phố Vinh, Nguyễn Đức T đã lợi dụng sơ hở, lén lút thực hiện 04 vụ trộm cắp với tổng trị giá tài sản là 32.400.000 đồng và 01 vụ cướp tài sản, cụ thể như sau:

Ngày 26/10/2021, T chiếm đoạt của anh Đặng Trần Sỹ Q 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu vàng đen, biển số 37B1-997.94 trị giá 6.500.000 đồng;

Ngày 22/11/2021, T chiếm đoạt của chị Bùi Thị N 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển số 37B2-379.94 trị giá 6.000.000 đồng;

Ngày 27/11/2021, T chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn H 03 chiếc áo khoác trị giá 900.000 đồng; chiếm đoạt của cháu Nguyễn Thị Mai L 01 chiếc Iphone 6s plus, màu hồng trị giá 1.500.000 đồng; chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị N2 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu đen trị giá 500.000 đồng; và chiếm đoạt của anh Thái Bảo T 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biên số 37E1-657.00 trị giá 13.500.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 16.400.000 đồng.

Khoảng 02 giờ ngày 28/11/2021, Nguyễn Đức T tiếp tục có hành vi lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt 08 chiếc áo khoác và 01 chiếc quần thể thao của anh Nguyễn Văn H trị giá là 3.500.000 đồng.

Các hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 32.400.000 đồng nên đã phạm vào khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Ngay sau đó, T đã có hành vi dùng dao kề cổ, khống chế cháu Nguyễn Thị Mai L (sinh ngày 12/6/2006) nhằm đe dọa, uy hiếp anh H để đòi lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen bạc, biển số 37B2-379.94 và chiếc ví da để bên trong cốp xe mà T đã bỏ lại khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại nhà anh H vào tối ngày 27/11/2021. Hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp tài sản”. Bị cáo sử dụng dao để khống chế cháu L là người dưới 16 tuổi, bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm nên đã vi phạm vào điểm d, điểm e và điểm h, điều 168 Bộ luật hình sự như Bản cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của những người bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần (Đối với tội “Trộm cắp tài sản”). Vì vậy, cần xét xử nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khổi đời sống xã hội một thời gian dài để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; tự nguyện đầu thú… nên cũng cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng xét thấy bị cáo hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Về dân sự: Những người bị hại là anh Nguyễn Văn H, cháu Nguyễn Thị Mai L, chị Bùi Thị N, anh Thái Bảo T, chị Phạm Thị N2, anh Đặng Trần Sỹ Q đều đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên miễn xét.

Về vật chứng: 02 chiếc vam phá khóa và 01 con dao bằng kim loại bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội hiện nay không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo luật định.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm các tội “Cướp tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm d, e, h khoản 2 điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2, điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2, điều 51; điểm g, h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 điều 55 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt của cả 02 tội buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải chấp hành hình phạt chung là 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo 28/11/2021.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ 02 chiếc vam phá khóa hình cữ T; 01 con dao bằng kim loại (Vật chứng hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 2022/158 ngày 08/6/2022).

Về án phí: Căn cứ vào điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Các bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản số 128/2022/HSST

Số hiệu:128/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về