Bản án về tội cướp tài sản số 24/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BN TRE, TNH BN TRE

BẢN ÁN 24/2022/HSST NGÀY 10/02/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 01/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

- Ng Thành Th (Ch Th ), sinh năm 1977 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ng Văn T, sinh năm 1957 và bà Dương Thị H, sinh năm 1956; Vợ: Phạm Thị Ngọc Gi (đã ly hôn); Con: có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2007;

Nhân thân bị cáo: Ngày 02/5/1996, bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Tre (nay là thành phố Bến Tre) xử phạt 33 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản công dân” và “Trộm cắp tài sản công dân” (chấp hành xong bản án ngày 23/3/1998). Ngày 08/02/1999, bị Tòa Tòa án nhân dân thị xã Bến Tre (nay là thành phố Bến Tre) xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” (chấp hành xong bản án ngày 29/9/2000). Ngày 02/02/2010, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng (đã chấp hành xong). Ngày 07/8/2012, bị Công an thành phố Bến Tre xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 07/11/2012, bị Ủy ban nhân dân xã MTA ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã thời hạn 06 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 09/7/2013, bị Ủy ban nhân dân thành phố Bến Tre ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 31/3/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/11/2017). Ngày 13/11/2018, bị Công an phường S xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” và bị Công an phường H xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (chưa nộp phạt). Ngày 15/7/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong bản án ngày 23/9/2020).

- Tiền án:

+ Ngày 31/3/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Bản án số 16/2017/HSST)

+ Ngày 15/7/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 42/2019/HSST).

- Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/5/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Cao Thị Anh T, sinh năm 2004; (Có mặt)

Nơi cư trú: Ấp B, xã SP, huyện GT, tỉnh Bến Tre.

Đại diện hợp pháp của bị hại: Cao Văn Ph, sinh năm 1989; (Có mặt)

Nơi cư trú: Ấp Ch, xã SP, huyện GT, tỉnh Bến Tre.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Lê Thảo Ng, sinh năm 2004; (Có mặt)

Nơi cư trú: ấp N, xã PL, huyện GT, tỉnh Bến Tre.

Đại diện hợp pháp của Lê Thảo Ng: Lê Thanh Nh, sinh năm 1976; (Có mặt)

Nơi cư trú: ấp N, xã PL, huyện GT, tỉnh Bến Tre.

* Người làm chứng:

- Hồ Thị Ngọc H, sinh năm 2004; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp B, xã PL, huyện GT, tỉnh Bến Tre.

Đại diện hợp pháp của Hồ Thị Ngọc H: Trần Thị Nh, sinh năm 1960; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp B, xã PL, huyện GT, tỉnh Bến Tre.

- Nguyễn Thị Hà T, sinh năm 1982; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp ATA, xã MTA, thành phố BTe, tỉnh Bến Tre.

- Nguyễn Văn T, sinh năm 1979; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 01/5/2021, Nguyễn Thành Th một mình điều khiển xe đạp đến công viên Đồng Khởi ở phường 4, thành phố Bến Tre để sử dụng ma túy. Tại đây, sau khi sử dụng ma túy xong, Th nhìn thấy Cao Thị Anh T(SN 2004), Lê Thảo Ng (SN 2004) và Hồ Thị Ngọc H (SN 2004) đang ngồi chơi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Để thực hiện ý định, Th cầm ống kim tiêm vừa mới sử dụng chích ma túy trước đó đi lại, ngồi đối diện với T, H, Ng và nói “ba đứa có tiền không cho chú xin” thì Ng trả lời “tụi con không có tiền”. Lập tức, Th tháo nắp đậy kim tiêm ra và dí mũi kim vào gần chân phải của T, do thấy Th đang cầm ống kim tiêm nên Ng và H sợ bỏ chạy. Khi thấy H và Ng bỏ chạy Th dọa “nếu chạy tao đâm bạn tụi bây”. Do quá hoảng sợ nên T ngồi yên để cho Th giật lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo của T đang cầm trên tay (điện thoại T mượn của Ng sử dụng) rồi đi ra lấy xe đạp tẩu thoát. Sau đó, Th đem chiếc điện thoại di động vừa chiếm đoạt được của Tbán cho Ng Thị Hà T được 1.200.000 đồng lấy tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng. Riêng T sau khi mua chiếc điện thoại di động hiệu Oppo do Th bán đã bán lại cho một người lạ mặt nên tài sản không thu hồi được.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe đạp loại Martin màu trắng bạc;

- 01 áo sơ mi sọc tay dài;

- 01 nón kết màu đen có ghi chữ GUCCI;

- 01 khẩu trang y tế màu trắng - xám;

- 01 ống kim tiêm có nắp màu cam;

- 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm;

- 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm;

- Số tiền Việt Nam 150.000 đồng;

(Do Nguyễn Thành Th giao nộp).

- 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm;

- 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11 cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm (thu giữ trong quá trình thực nghiệm điều tra).

Theo Bản kết luận định giá trị tài sản số 937/KL-HĐĐG ngày 19/11/2021 của Hội đồng định giá thành phố Bến Tre kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu bạc; trị giá ngày 01/5/2021: 6.020.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 07/CT-VKSTPBT ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Th về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại các điểm d, h, khoản 2, Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ Ng quyết định truy tố, đề nghị:

Áp dụng các điển d, h, khoản 2, Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Th từ 08 đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”.

Hình phạt bổ sung: không áp dụng do bị cáo Th không có nghề nghiệp và tài sản.

Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Đề nghị trả lại 01 xe đạp loại Martin màu trắng bạc cho ông Nguyễn Văn T;

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi sọc tay dài; 01 nón kết màu đen có ghi chữ GUCCI; 01 khẩu trang y tế màu trắng - xám; 01 ống kim tiêm có nắp màu cam; 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm; 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm; 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm; 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm

Đề nghị tiếp tục tạm giữ số tiền số tiền Việt Nam 150.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: áp dụng các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015: Ghi nhận việc bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản chiếm đoạt không thu hồi được.

Bị cáo Th khai nhận vào ngày 01/5/2021 bị cáo đi từ nhà đến công viên ĐK mục đích để sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong bị cáo cầm ông kim tiêm trên tay thấy 3 người nữ ngồi gần đó. Bị cáo đến gần đưa ống bơm kim tiêm có gắn kim tiêm và nói cho chú xin tiền mua thuốc, ba người nữ này nói không có nên bị cáo rút vỏ ống kim tiêm ra, hai người nữ ngồi hai bên bỏ chạy, còn một người ngồi giữa. Bị cáo nói “chạy tao đâm bạn mày”, lúc này còn người ngồi giữa tay cầm điện thoại, tay phải bị cáo cầm ống kim tiêm đã tháo nắp, tay trái giật điện thoại và bỏ đi ra xe đạp chạy về hướng xã MTA. Chiếc điện thoại lấy được bị cáo bán cho chị Nguyễn Thị Hà T được 1.200.000 đồng, bị cáo tiêu xài. Bị cáo thừa nhận hanh vi của mình là vi phạm. Bị cáo không khiếu nại gì đối với các hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, về phần bồi thường thiệt hại bị cáo đồng ý bồi thường theo kết quả định giá.

Bị hại Cao Thị Anh T trình bày: sự việc xảy ra vào ngày 01/5/2021 bị cáo khai là đúng. Khi bị cáo dùng ống kim tiêm dí vào người chị, chị hoảng sợ không dám kháng cự. Bị cáo giật lấy điện thoại chị đang cầm trên tay và bỏ đi. Sau khi bị lấy điện thoại, chị cùng với chị Ng, H truy hô đuổi theo nhưng không được nên đến trình báo Công an. Chiếc điện thoại này chị mượn của chị Ng. Hiện nay bị cáo chưa bồi thường cho chị để chị trả cho chị Ng, nhưng chị Ng cũng không yêu cầu bồi thường nên chị cũng không yêu cầu bị cáo bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị hại trình bày: đồng ý với lời trình bày của chị Anh T. Những lời trình bày của chị T là đúng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thảo Ng trình bày: sự việc xảy ra ngày 01/5/2021 tại khu vực Công viên ĐK, phường B, thành phố BT như chị T trình bày là đúng. Hôm đó, chị cùng chị T, H đến công viên chơi. Lúc ba người đang ngồi thì bị cáo đến gần, trên tay cầm ống kim tiêm dí vào người hỏi xin tiền, nhưng các chị nói không có và thấy hoảng sợ bỏ chạy, do chị T ngồi giữa không chạy được nên bị cáo hăm dọa và giật lấy điện thoại. Chiếc điện thoại chị T bị giật lấy là của chị, chị T mượn xem. Hiện nay bị cáo chưa bồi thường giá trị chiếc điện thoại này cho chị T và chị. Chị không yêu cầu bị cáo bồi thường đối với chiếc điện thoại bị mất này, đây là sự tự nguyện.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: đồng ý với lời trình bày của chị Ng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét việc vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ vào Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Th tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị hại, những người tham gia tố tụng khác; phù hợp với tang vật thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định: Xuất phát từ động cơ tư lợi bất chính, vào khoảng 14 giờ ngày 01/5/2021, tại công viên ĐK ở phường B, thành phố BT, Nguyễn Thành Th đã có hành vi dùng ống bơm kim tiêm có gắn mũi kim tiêm và có lời nói đe dọa, uy hiếp tinh thần làm cho Cao Thị Anh T lâm vào trình trạng không thể chống cự được để chiếm đoạt của T01 điện thoại di động hiệu Oppo trị giá 6.020.000 đồng

[3] Bị cáo Th là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận biết được hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi bất chính, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo sử dụng ông kim tiêm có gắn kim tiêm đe dọa đối với bị hại, đây là hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm, trước khi thực hiện hành vi này bị cáo đã bị kết án thuộc trường hợp tái phạm, chưa được xóa án tích. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố bị cáo Th về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại các điểm d, h khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

[4] Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, lợi dụng bị hại là người chưa thành niên để dễ dàng tấn công bị hại, bị cáo còn dùng hung khí nguy hiểm là ống kim tiêm có gắn kim tiêm mở nắp dí vào chân và có lời nói đe dọa khống chế bị hại để thực hiện hành vi phạm tội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các bị cáo thực hiện tội phạm, gây tâm lý lo sợ cho quần chúng nhân dân trong lao động, sinh hoạt hằng ngày.

[5] Về nhân thân, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân, bị cáo Th có nhân thân xấu bị cáo đã nhiều lần bị kết án, trong đó có lần kết án về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và bị hại đó yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[6] Lời phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh đối với bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo phù hợp với quy định pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với: 01 xe đạp loại Martin màu trắng bạc là tài sản của ông Ng Văn T, bị cáo mượn không liên quan đến phạm tội nên trả lại cho ông T.

Đối với các tài sản: 01 áo sơ mi sọc tay dài; 01 nón kết màu đen có ghi chữ GUCCI; 01 khẩu trang y tế màu trắng - xám; 01 ống kim tiêm có nắp màu cam; 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm; 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm; 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm; 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm của bị cáo, bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền Việt Nam 150.000 đồng của bị cáo nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Cao Thị Anh T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thảo Ng không yêu cầu bị cáo bồi Thường thiệt hại giá trị tài sản bị chiếm đoạt do không thu hồi được, đây là sự tự nguyện nên ghi nhận.

[9] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo Th không có nghề nghiệp nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Th phải nộp theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ng Thành Th (Ch Th) phạm tội “Cướp tài sản”

1. Áp dụng các điểm d, h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Ng Thành Th 08 (tám) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 02/5/2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Trả lại cho ông Ng Văn T, sinh năm 1957; ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre: 01 (một) xe đạp loại Martin màu trắng bạc;

Tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi sọc tay dài; 01 nón kết màu đen có ghi chữ GUCCI; 01 khẩu trang y tế màu trắng - xám; 01 ống kim tiêm có nắp màu cam; 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm; 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm; 01 nắp kim tiêm màu đỏ dài 02cm; 01 ống kim tiêm nhựa trắng dài 11cm, loại 40ml, có mũi kim dài 01 cm

Tạm giữ số tiền 150.000 (Một trăm năm mười nghìn) đồng để đảm bảo việc thi hành án.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/02/2022, hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến Tre đang quản lý).

4. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Ng Thành Th phải nộp là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 24/2022/HSST

Số hiệu:24/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về