Bản án về tội cướp tài sản số 211/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 211/2021/HS-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 170/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 06 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Y V BYă Sinh ngày 24 tháng 3 năm 2003; Tại: Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn K, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Ê Đê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Y T Êban và con bà H’ H Byă. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/3/2021 đến nay, hiện đang giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột – Có mặt tại phiên tòa.

*Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Y T Êban và bà H’H Byă Nơi cư trú: Buôn K, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hoàng Thị T1 – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

*Bị hại: Ông Đỗ Chế L – sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn x, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)

*Người có quyền nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Y Th A Đrơng – sinh năm 1998. Địa chỉ: Buôn K, xã E thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt)

2. Anh Y T2 ÊBan – sinh năm 2006. Địa chỉ: Buôn K1, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt) Người đại diện hợp pháp của anh Y T2 Ê Ban là bà H N Êban (có mặt)

3. Bà Diệp Thị H - sinh năm 1950. Địa chỉ: Buôn K1, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)

4. Ông Y L Byă – sinh năm 2000. Địa chỉ: Buôn K xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)

* Người làm chứng: Ông Y W Ê Ban – sinh năm 1954. Địa chỉ: Buôn K xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)

* Người phiên dịch: Ông Y K Ê Nuôl.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/10/2020, Y V BYă điều khiển xe mô tô biển số: 47L4-xxxx, nhãn hiệu Kinlon, màu xanh, chở Y T2 Êban (sinh ngày 14/4/2006) và Y Th Adrơng đi chơi. Trên đường đi, cả nhóm nghe người dân nói có người ném bả chó nên Y V chở Y T2 và Y Th đi đến khu vực ngã ba giao giữa đường vành đai quốc lộ 14-6 giao với đường liên thôn vào buôn K, gần khu vực trước nhà cộng đồng buôn K, thì nhìn thấy anh Đỗ Chế L đang đứng cạnh xe mô tô biển số 38F5-30xx dựng bên lề đường. Nghĩ anh L là người ném bả chó nên Y V dừng xe, Y V và Y T2 đi đến chỗ anh L, Y T2 nhìn thấy 01 cục bả chó ở giữa đường nên cầm lên, đi đến hỏi anh L “Của mày phải không?”, “Mày đứng đây làm gì?”, anh L trả lời “Đèn xe bị hư” thì Y T2 dùng tay tát trúng mặt của anh L, rồi Y T2 và Y V kiểm tra người anh Linh xem có bả chó hay không. Y V kiểm tra trong túi quần của anh L có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105, màu đen và số tiền 100.000 đồng nên đã nảy sinh ý định cướp các tài sản trên, Y V lấy điện thoại di động và số tiền 100.000 đồng bỏ vào túi quần của Y V. Do sợ bị đánh nên anh L không chống cự, đứng im cho Y V và Y T2 kiểm tra người. Khi kiểm tra trên người anh L thấy số tiền 15.000 đồng thì Y V ném xuống đường gần chỗ anh L đứng, còn Y T2 kiểm tra thấy trên người anh L có 01 cục bả chó rơi xuống đường nên Y T2 và Y V dùng tay, chân đánh trúng người anh L, Y T2 nhặt 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 01m đánh trúng lưng và ngực của anh Linh. Thấy Y V và Y T2 đánh anh L, Y Th đi đến can ngăn nhưng không được nên đã bỏ đi bộ về trước. Y V và Y T2 được người dân can ngăn nên đã điều khiển xe mô tô biển số 47L4-9419 bỏ đi. Sau đó, Y V điều khiển xe mô tô biển số 47L4-xxx chở Y T2 đi đến cây xăng tại Km9, buôn K1, xã E, thành phố B, để đổ xăng. Tại đây, Y V nói cho Y T2 biết việc Y V lấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105, màu đen và số tiền 100.000 đồng của anh Đỗ Chế L rồi cùng nhau sử dụng hết số tiền 100.000 đồng. Ngày 18/10/2020, Y V và Y T2 đi đến huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, để chơi thì Y T2 nói Y V cho Y T2 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Philips, màu đen, để sử dụng thì Y V đồng ý và đưa điện thoại cho Y T2. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Y T2 đi đến quán tạp hóa của bà Diệp Thị H để mua thuốc lá và nước uống với số tiền 30.000 đồng, do không có tiền nên Y T2 đã cầm cố chiếc điện thoại di động Philips, màu đen cho bà H. Sau khi sự việc xảy ra, anh Đỗ Chế L đã trình báo sự việc đến Cơ quan điều tra để xử lý (BL: 60; 63-66; 76-77).

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 294/KLĐG ngày 23/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105, màu đen, số Imei 1: 861276036270456, số Imei 2: 861276036410457, trị giá: 10.000 đồng (BL: 25- 26).

Ngày 22/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột quyết định trưng cầu giám định tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Đỗ Chế L. Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số: 58/ThT-TTPY ngày 24/12/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đắk Lắk, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 0% (BL: 27; 30-31).

Ngày 24/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột quyết định trưng cầu giám định độ tuổi của Y V BYă tại thời điểm ngày 17/10/2020. Tại bản kết luận giám định pháp y độ tuổi số 60/C09C-DD3 ngày 18/01/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: Độ tuổi của Y V BYă tại thời điểm ngày 17/10/2020 là từ 17 năm đến 17 năm 06 tháng (BL: 36-38).

Tại bản cáo trạng số: 208/CT-VKS ngày 17/6/2021 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố Y V BYă về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Y V BYă đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Y V BYă phạm tội “Cướp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 168; các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Y V BYă mức án từ 02 năm 03 tháng đến 03 năm tù.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật dân sự.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 chiếc xe mô tô biển số 47L4-9419 nhãn hiệu Hwa cho anh Y L Byă là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra trao trả cho ông Đỗ Chế L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105.

Bị hại ông Đỗ Chế L có đơn yêu cầu bị cáo Y V bồi thường thiệt hại số tiền 2.115.000 đồng. Ông L đã nhận 500.000 đồng, còn lại 1.615.000 đồng. Đề nghị giải quyết theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo Y V - bà Hoàng Thị T trình bày: Về tội danh thống nhất theo quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên đề nghị xem xét về nguyên nhân dẫn đến sự việc để cân nhắc khi lượng hình. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại, thành khẩn khai báo, chưa có tiền án tiền sự gì, nhận thức của bị cáo là người chưa thành niên, dân tộc thiểu số, mức độ thiệt hại có giá trị không lớn. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Về Trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của gia đình Y T2 và gia đình Y V, liên đới bồi thường số tiền 1.615.000 đồng. Về xử phạt hành chính: Đề nghị xem xét lại khi ra quyết định xử phạt hành chính đối với Y V.

Tại phiên tòa bị cáo Y V BYă không bào chữa tranh luận gì, chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo không bào chữa tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự hành vi gây thương tích là của Y V và Y T2 cùng thực hiện, do đó về tiền bồi thường đề nghị gia đình Y T2 có trách nhiệm chung cùng gia đình bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo như sau: khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/10/2020, Y V BYă đã dùng tay, chân đánh ông Đỗ Chế L, nhằm cướp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105 và số tiền 100.000 đồng của ông Đỗ Chế L, tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là: 110.000 đồng.

Do vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định:

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm”.

Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Y V BYă theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo Y V BYă gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã dùng tay chân đánh bị hại để lấy đi chiếc điện thoại và số tiền 100.000 đồng của bị hại. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo gây ra.

[2.2] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Y V BYă là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự gì, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại. Ngoài ra bị cáo còn là người chưa thành niên, người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, do đó cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt với bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

[2.3] Trong vụ án này, đối với hành vi Y V chiếm đoạt tài sản của ông Đỗ Chế L, Y T2 không biết và không bàn bạc trước với Y V. Việc Y T2 cùng Y V sử dụng số tiền 100.000 đồng và điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105, màu đen (Y Tiếp biết đây là tài sản do Y V chiếm đoạt của anh Đỗ Chế L), có dấu hiệu phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Y T2 Êban chỉ 14 tuổi 06 tháng 03 ngày, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với Y V BYă và Y T2 Êban đã có hành vi dùng tay, chân và 01 đoạn cây gỗ đánh anh Đỗ Chế L gây tổn thương cơ thể 0%. Do vậy, hành vi của Y V và Y T2 không đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ngày 31/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Y V BYă về hành vi “Đánh nhau”, quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, với hình thức phạt tiền 375.000 đồng; Ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Y T2 Êban về hành vi “Đánh nhau” và “Sử dụng tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có”, quy định tại điểm a, đ khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, bằng hình thức phạt cảnh cáo, là phù hợp.

Đối với anh Y Th Adrơng, là người cùng Y V BYă và Y T2 Êban đi đến khu vực ngã ba giao giữa đường vành đai quốc lộ 14-6 giao với đường liên thôn vào buôn K, gần khu vực trước nhà cộng đồng buôn K. Tại đây, khi Y V chiếm đoạt tài sản của ông Đỗ Chế L thì Y Th không biết, sau đó can ngăn Y V và Y T2 đánh ông L nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với bà Diệp Thị H, là người nhận cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105, màu đen của Y T2 Êban. Tuy nhiên bà H không biết chiếc điện thoại là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với 02 cục bả chó và 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 01m là công cụ Y T2 Êban sử dụng để đánh anh Đỗ Chế L và số tiền 15.000 đồng bị can Y V BYă tìm được trên người anh Linh. Sau khi sự việc xảy ra, Y T2 và bị can Y V vứt bỏ các tài sản trên tại nơi xảy ra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tiến hành truy tìm tài sản nhưng không tạm giữ được, nên không đề cập xử lý.

sự.

[2.4] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585,586, 589 Bộ luật dân Bị hại ông Đỗ Chế L có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 2.115.000 đồng, bao gồm chi phí thuốc men, và tổn thất tinh thần khi bị bị cáo Y V và Y T2 đánh. Gia đình bị cáo Y V đã bồi thường số tiền 500.000 đồng, bị hại đã nhận và đề nghị giải quyết theo quy định đối với số tiền bồi thường còn lại là 1.615.000 đồng.

Tại phiên tòa anh Y T2 và đại diện hợp pháp của Y T2 đồng ý chia đôi số tiền bồi thường 1.615.000 đồng cho bị hại ông Đỗ Chế L. Đây là sự tự nguyện của đương sự. Do đó hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của các bên, buộc bà H N Ê Ban và gia đình ông Y Th Êban và bà H’ H Byă có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho bị hại. Cụ thể bà H N Êban bồi thường cho ông Đỗ Chế L số tiền 807.500 đồng, ông Y Th và bà H’H bồi thường cho ông Đỗ Chế L số tiền 807.500 đồng [2.5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 chiếc xe mô tô biển số 47L4-xxx nhãn hiệu Hwa cho anh Y L Byă là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra trao trả cho ông Đỗ Chế L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105.

[2.6] Về án phí: Bị cáo Y V BYă phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bà H N Ê Ban và ông Y Th Ê ban, bà H’H Byă phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Y V BYă phạm tội “Cướp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 168; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Y V BYă 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 13/3/2021.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của gia đình bị cáo ông Y T Êban và bà H’H Byă đã bồi thường cho bị hại ông Đỗ Chế L số tiền 500.000 đồng.

Buộc bà H’N Êban có nghĩa vụ bồi thường cho ông Đỗ Chế L số tiền 807.500 đồng.

Buộc ông Y T Êban và bà H’H Byă có nghĩa vụ bồi thường cho ông Đỗ Chế L số tiền 807.500 đồng Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 chiếc xe mô tô biển số 47L4-9419 nhãn hiệu Hwa cho anh Y L Byă là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra trao trả cho ông Đỗ Chế L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips E105.

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Y V BYă phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bà H N Ê Ban phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; Ông Y T Êban và bà H’H Byă phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm Bị cáo, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm ngày) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 211/2021/HS-ST

Số hiệu:211/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về