Bản án về tội cướp tài sản số 166/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 166/2021/HS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 169/2021/TLST - HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170 /2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Phi L – sinh năm 1976; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; HKTT: Số III ngách VI, phường K, quận T, Hà Nội; Nơi ở: Không xác định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Đình H ( đã chết) ; Con bà: Đinh Thị N ( đã chết ); Nhân thân: 02 tiền án ( Ngày 05/12/1998, TAND quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 30 tháng về tội Gây rối trật tự công công, đã đóng án phí – đã xóa án tích; Ngày 24/6/2015, TAND quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xử phạt 7 tháng 17 ngày tù về tội Gây rối trật tự công cộng, đã đóng án phí – đã xóa án tích), 02 tiền sự ( Năm 2011, PC45 – CATP Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ vũ khí thô sơ; Năm 2013, CAP Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi đổ chất bẩn vào nhà người khác); Danh chỉ bản: 023 lập ngày 08/02/2021 tại công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Bị cáo bị bắt truy nã ngày 01 tháng 02 năm 2021 ( có mặt tại phiên tòa )

*Người bị hại:

Chị Nguyễn Ngọc T – sinh năm: 1996; Trú tại: Số V, phường Đ, quận H, Hà Nội.

( vắng mặt tại phiên tòa )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 10/2016, Nguyễn Phi L thuê nhà số XX Nghi Tàm, p. Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội để mở cửa hàng hoạt động trong lĩnh vực cho vay tiền dưới hình thức cho vay tín chấp tính lãi ngày và bốc “họ”. Quá trình kinh doanh, L thuê Phạm MT làm kế toán thu tiền; Phạm VT và Vũ Xuân T làm người đi thu tiền của khách.

Qua bạn bè giới thiệu, đầu tháng 12/2017 chị Nguyễn Ngọc T đến cửa hàng số XX Nghi Tàm viết giấy vay Nguyễn Phi L số tiền 5.000.000 đồng, thỏa thuận tiền lãi 20.000 đồng/1 triệu/1 ngày. Đến cuối tháng 12/2017, chị T tiếp tục đến cửa hàng XX Nghi Tàm viết giấy vay Nguyễn Phi L số tiền 12.000.000 đồng (trên thực tế chị T và L thỏa thuận chị T “bốc họ” của L số tiền 12.000.000 đồng, khi vay “họ” chị T chỉ nhận được 9.000.000 đồng còn 3.000.000 đồng trừ trước tiền “họ”, phải đóng trong vòng 40 ngày liên tiếp, mỗi ngày phải đóng 300.000 đồng). Theo thỏa thuận, hàng ngày Vũ Xuân T sẽ gọi điện để chị T trả tiền lãi ngày với các khoản vay và đóng họ cho L.

Chiều ngày 07/01/2018, Vũ Xuân T gọi điện nhắc chị T trả số tiền gốc và lãi vay 03 ngày là 1.400.000 đồng nhưng chị T không nghe máy nên T đến phòng trọ của T tại khu tập thể V phố C, phường Đống Mác, Hai Bà Trưng, Hà Nội tìm. Do T nói không có tiền trả ngay nên T yêu cầu T phải đến cửa hàng XX Nghi Tàm để gặp L giải quyết việc vay nợ. Khoảng 18h30 cùng ngày, chị T cùng bạn là H TA đi một xe máy theo sau xe máy của T đến cửa hàng XX Nghi Tàm để gặp L.

Khi đến cửa hàng XX Nghi Tàm, chị T, chị K gặp L, T và một đối tượng Thắng (chưa xác định nhân thân). L hỏi chị T: “Thế bây giờ tiền nong của tao thế nào, tại sao thằng T gọi mày mà không nghe máy”. Thấy T không trả lời, T tiến đến chửi và dùng tay tát 02 cái vào mặt chị T. Do chị K can ngăn nên T không tiếp tục đánh chị T mà ra ngồi cạnh Thắng. L hỏi T: “thế bây giờ mày có đóng tiền cho tao không” rồi chửi và dùng tay trái tát vào mặt và dùng chân phải đạp vào người chị T, ép chị T phải trả tiền. Do sợ hãi và bị đánh đau, chị T xin L cho về và hẹn đến 20h30 cùng ngày sẽ trả tiền.

Đến giờ hẹn, T gọi điện thoại cho chị T nhưng chị T không nghe máy nên Tuấn nói lại với L. Khoảng 22h cùng ngày, L bảo T, Phạm MT, Phạm VT và đối tượng Dũng (bạn của L, thường gọi là Dũng “bép”, chưa xác định được nhân thân) đi cùng đến khu tập thể V phố C gặp chị T để đòi tiền.

Khi đến nơi, nhóm của L đứng ở ngoài đợi còn một mình T vào tìm thì thấy trong phòng của T tại khu tập thể V phố C có chị T cùng chị K, anh Bùi Minh H. Sau khi nói chuyện với T thì Học có tát và chửi T về việc đi vay lãi làm ảnh hưởng đến công việc của Học. Do đợi lâu nên L đi vào nói “đứa nào vay tiền thì làm việc với đứa đấy” và yêu cầu chị T đi ra ngoài để nói chuyện. Chị T cùng K, H và Học cùng đi ra ngoài gặp L. Tại cổng khu tập thể V phố C, L bắt chị T ngồi xuống đất và chửi T để đòi tiền. Thấy T không nói gì, L dùng tay phải tát vào mặt, dùng chân đá vào người, cầm chai nước lavie đang uống dở đập vào đầu chị T. Phạm VT dùng tay phải tát 02 cái vào đầu T, Dũng “bép” rút thắt lưng (loại thắt lưng bằng da màu nâu, chiều dài khoảng 01m, chiều ngang khoảng 05cm có đầu thắt lưng bằng sắt màu nâu) gập đôi lại rồi vụt vào đầu T bắt phải trả tiền, Chứng kiến L, Phạm VT, Dũng “bép” đánh T thì Phạm MT đến can ngăn sau đó bỏ đi.

Do bị đánh đau nên chị T bảo chị K về nhà lấy cho chị T vay số tiền 1.400.000 đồng để trả cho L. Khi được chị K đưa 1.400.000 đồng thì T cầm tiền đưa cho L sau đó cùng L, Phạm MT, Phạm VT, Dũng “bép” đi về. Chị T đến Công an phường Đống Mác trình báo sự việc.

Khoảng 17h ngày 09/01/2018, T tiếp tục gọi điện cho chị T để hỏi tiền đóng họ ngày 09/01/2018, chị T nói chỉ thu xếp được 300.000 đồng, hẹn T xuống số V để lấy tiền. Phạm VT lấy xe máy chở T đến V gặp T thì T bảo chờ để vào nhà lấy tiền. Tuấn bắt chị T đứng lại và dùng tay trái tát vào má T. Ngay lúc đó, tổ công tác Công an phường Đống Mác tiến hành kiểm tra hành chính và đưa Vũ Xuân T, Phạm VT về trụ sở để đấu tranh làm rõ sự việc.

Lời khai của các đối tượng tham gia cùng L trong quá trình điều tra trước đây thể hiện: Vũ Xuân T và Phạm VT khai làm thuê cho L hưởng lương tháng nên đánh và dọa T để đòi số tiền 1.400.000 đồng T nợ L. Việc các đối tượng trên đi đòi nợ không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ hay chuẩn bị công cụ, phương tiện gì từ L.

Đối với những đối tượng Phạm VT, Vũ Xuân T đã bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử về tội Cướp tài sản vào ngày 05/11/2018.

Đối với Phạm MT do có hành vi can ngăn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm nên cơ quan CSĐT đã ra quyết định không xử lý hình sự về hành vi không tố giác tội phạm theo khoản 2 Điều 390 Bộ luật hình sự.

Đối với đối tượng Dũng “bép”: L khai là bạn xã hội của L, L không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của Dũng nên Cơ quan điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng không có căn cứ xác minh, xử lý.

Đối với hành vi của H Văn Học dùng tay tát vào mặt chị Nguyễn Ngọc T, do chị T từ chối khám thương, từ chối giám định thương tích, không yêu cầu bồi thường dân sự. Cơ quan CSĐT Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác theo điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ.

Quá trình điều tra, cơ quan công an đã khám xét nơi ở của Nguyễn Phi L nhưng không thu giữ được gì. Cơ quan CSĐT Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Phi L về tội Cướp tài sản, quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự nhưng L đã bỏ trốn. Hết thời hạn điều tra vụ án, CQĐT đã ra quyết định tách vụ án liên quan đến bị can Nguyễn Phi L, tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can, truy nã đối với Nguyễn Phi L về tội Cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự. Ngày 01/02/2021, Nguyễn Phi L bị bắt tại P. Chi Lăng, TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 02/02/2021, Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra vụ án, phục hổi điều tra bị can đối với Nguyễn Phi L về tội Cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Phi L khai nhận hành vi phạm tội: Mục đích L đánh chị T để cho chị T sợ và phải trả tiền cho L, do bị đánh nên chị T đã đưa cho nhóm của L số tiền 1.400.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 160/CT-VKS-HBT ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Phi L về tội Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ quyền công tố nhà nước tại phiên toà sau khi phân tích nội dung vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố được công bố tại Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Phi L từ 48 đến 54 tháng tù.

Về phần dân sự: Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 1.400.000 đồng do phạm tội mà có.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 07/1/2018 tại khu vực tập thể V phố C, phường Đống Mác, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Nguyễn Phi L cùng những đối tượng khác đã có hành vi đe dọa, dùng vũ lực đánh đập chị Nguyễn Ngọc T để chiếm đoạt số tiền 1.400.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Phi L đã phạm tội Cướp tài sản, tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân mà còn xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của người bị hại, gây mất an ninh trật tự trong xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Xét vai trò của bị cáo, bị cáo là chủ cửa hàng hoạt động trong lĩnh vực cho vay tiền dưới hình thức cho vay tín chấp nhưng qua xem xét các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện các hành vi của bị cáo và đồng phạm khác diễn ra trong ngày 07/1/2018 đối với người bị hại không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ hay chuẩn bị công cụ phương tiện nên chỉ là đồng phạm giản đơn và cùng là người thực hành.

Xét nhân thân bị cáo có 02 tiền án đều về tội Gây rối trật tự công cộng đã được xóa án tích, hai tiền sự đều đã hết thời hiệu. Chứng tỏ bị cáo đã được các cơ quan pháp luật giáo dục cải tạo nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Ngày 01/2/2021 bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã số 04 ngày 18/4/2018 của cơ quan điều tra công an quận Hai Bà Trưng nên cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy tại phiên tòa hôm nay cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối lỗi, bị cáo có bố tham gia hoạt động cách mạng được thưởng huân huy chương trong kháng chiến chống Mỹ nên áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập nên miễn phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

Đối với chai nước Lavie mà bị cáo sử dụng để đánh chị T, bị cáo đã vứt trên đường về nhà và không nhớ địa điểm đã vứt chai nước Lavie nên Hội đồng xét xử không có cơ sở không xem xét.

Về bồi thường dân sự: Quá trình điều tra, chị Nguyễn Thị Ngọc T từ chối khám thương, từ chối giám định thương tích và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với số tiền 1.400.000 đồng bị cáo chiếm đoạt của chị T, bị cáo đã một mình ăn tiêu nên cần buộc bị cáo phải truy nộp số tiền này để sung công.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố : Bị cáo Nguyễn Phi L phạm tội Cướp tài sản

Xử phạt : Nguyễn Phi L 46 ( bốn mươi sáu ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/2/2021.

Căn cứ Điều 106, Điều 331, 332, 333, 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 3, khoản 1 Điều 21,điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 1.400.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí :

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Về quyền kháng cáo :

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 166/2021/HS-ST

Số hiệu:166/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về