Bản án về tội cướp tài sản số 155/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 155/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 155/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2022/QĐXX-ST ngày 08 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, sinh 1988; Giới tính: Nam; HKTT: Đội 3, thị trấn Đ, huyện M, Hà Nội; Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn T (chết); Con bà: Bạch Thị T, sinh 1965; Danh chỉ bản số 0000000200 lập ngày 24/3/2022 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội,

Tiền án:

+ Bản án số 66/HSST ngày 25/9/2009, Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 10/07/2010.

+ Bản án số 31/2011/HSST ngày 29/6/2011, Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Bản án số 98/2011/HSST ngày 25/08/2011, Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Tại Quyết định tổng hợp hình phạt số 01/2011/QĐ-CA ngày 27/9/2011 của Chánh án Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình đã quyết định tổng hợp hình phạt 30 tháng tù tại bản án số 31/2011/HSST ngày 29/06/2021 của Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức và hình phạt 27 tháng tù của Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình tại bản án số 98/2011/HSST ngày 25/08/2011, buộc Nguyễn Văn S phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 57 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/04/2011 - chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/05/2015.

+ Bản án số 09/2017/HSST ngày 28/02/2017, Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội xử phạt 48 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2016. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/6/2020.

Bị bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 25/02/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Số 1 - Công an thành phố Hà Nội (có mặt)

Người bị hại: Ông Ngô Văn Th, sinh 1959. Địa chỉ: TDP số 2, phường P, quận N, Hà Nội (vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Văn T, sinh 1985. HKTT: xóm 3, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn S là đối tượng nghiện ma túy, sống lang thang, không có việc làm ổn định, do không có tiền mua ma túy và tiêu sài cá nhân nên S đã nảy sinh ý định cướp tài sản. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 14/02/2022, S đi bộ từ đường Nguyễn Tuân đến điểm chờ xe Bus trên đường Hoàng Minh Giám thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội tìm người sơ hở để cướp tài sản. Lúc này có ông Ngô Văn Th (là lái xe ôm) điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ - đen, BKS: 30Y7 – X đi tới mời S đi xe ôm, S đồng ý và yêu cầu ông Th chở đến khu vực Đình Thôn, Mỹ Đình 1, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Khi đi đến ngã 3 giao nhau giữa Đình Thôn - Phạm Hùng, S chủ động hướng dẫn ông Th đi vào khu vực đường mới đang xây dựng (Đường nối giữa đường Trần Hữu Dực và đường Phạm Hùng) là khu vực ít người qua lại để cướp tài sản. Khi ông Th chở S đi đến giữa đường mới, S bảo ông Th dừng lại, S nhanh chóng nhảy xuống xe và nhặt nửa viên gạch bằng xi măng bên đường rồi đập vào vùng tai trái của ông Th nhưng bị ông Th phát hiện và dùng tay đỡ được, S tiếp tục đập thêm một lần nữa vào bên tai phải của ông Th gây thương tích và làm ông Th bị ngã. Thấy ông Th bị ngã nên S lấy xe máy và phóng xe bỏ chạy theo đoạn đường mới ra đường Phạm Hùng. Ông Th thấy vậy có dùng gạch đuổi theo ném vào S nhưng không gây thương tích cho S. S sau khi cướp được xe của ông Th đã phóng xe bỏ chạy theo đường Đại lộ Thăng Long đi vào ngõ 2 Đại lộ Thăng Long thì thấy cửa hàng thu mua sắt vụn do Đỗ Văn T (sinh năm: 1985, HKTT: phường M, quận N, Hà Nội) làm chủ nên đã vào để bán xe. Khi gặp T, S hỏi “Có mua xe sắt vụn không?”, T đồng ý và hỏi giấy đăng ký xe nhưng S nói dối là đã bị mất giấy tờ. Sau khi thỏa thuận T đồng ý mua bán xe với giá là 900.000 đồng, số tiền này S đã dùng tiêu sài cá nhân hết.

Sau khi mua xe, Đỗ Văn T sử dụng xe để chở sắt vụn hàng ngày. Ngày 25/02/2022, sau khi được thông báo và biết là vật chứng của vụ án cướp tài sản, anh T đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ - đen, BKS: 30Y7 – X, số khung 039124, số máy: 039124 đã mua của S.

Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Văn S, kết quả S đã chỉ và xác định được vị trí nhặt viên gạch và nơi thực hiện hành vi cướp tài sản tại bãi đất trống, gần doanh trại quân đội thuộc phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội (Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 viên gạch vỡ nửa bằng xi măng) và xác định địa điểm bán chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ - đen, BKS: 30Y7 – X tại số 2 ngõ 2, Đại lộ Thăng Long, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 75/KLĐGTS ngày 02/03/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Uỷ ban nhân dân quận Nam Từ Liêm, xác định: Chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ - đen, BKS: 30Y7 – X, số khung 039124, số máy: 039124 đăng ký lần đầu ngày 10/03/2009 đã qua sử dụng trị giá là 3.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện hành vi đánh, cướp tài sản, S đã dùng gạch đánh gây thương tích cho ông Ngô Văn Th: vết rách vành tai phải phức tạp lộ sụn, dập nát, nhiều dị vật. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với tổn thương cơ thể của ông Th và đã tống đạt quyết định trưng cầu giám định cho ông Th nhưng ông Th đã từ chối giám định thương tích, với lý do: thương tích nhẹ và gia đình S đã hỗ trợ tiền viện phí, tiền thuốc cho ông Th đồng thời ông Th có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho S và không có yêu cầu đề nghị gì khác về dân sự.

Đối với Đỗ Văn T, tại cơ quan điều tra, T khai: khi mua xe, T có hỏi giấy đăng ký xe nhưng S nói là xe của S bị mất giấy tờ. Trong quá trình giao dịch, T thấy S chỉ đưa chìa khóa xe và đòi lại một chìa khóa trong chùm khóa xe nên T tin tưởng là xe của S, T không biết là xe do S phạm tội mà có. Sau khi mua xe, do T đi thu mua đồng nát, khi đi chở hàng đằng sau có kéo theo xe lôi (xe bò 3 bánh) nên để biển kiểm soát và yếm xe sẽ bị vướng khi vận chuyển nên T đã tháo ra cùng mặt nạ xe bị bung do khi bê hàng sắt vụn bị va quệt vào nên bị bung ra. Do T khai khi mua xe, T không biết là xe do S phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để kết luận, xử lý T về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Anh T không không yêu cầu S bồi thường 900.000 đồng và không có yêu cầu, đề nghị gì khác về dân sự.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ - đen, BKS: 30Y7 – X. Quá trình điều tra xác định, xe không nằm trong dữ liệu xe vật chứng, xe có số khung, số máy là nguyên thuỷ và đứng tên chủ sở hữu là chị Nguyễn Ngọc A (sinh năm 1980, HKTT: xã P, huyện C, Hà Nội). Chị Nguyễn Ngọc A khai đã mua và sử dụng chiếc xe trên từ năm 2009. Đến năm 2018, chị A đã bán chiếc xe trên cho ông Ngô Văn Th với giá 10.000.000 đồng.

Ngày 08/06/2022, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng và tiến hành trao trả chiếc xe máy BKS: 30Y7 – X cho ông Ngô Văn Th. Ông Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác về dân sự.

Lời khai nhận tội của Nguyễn Văn S phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai người liên quan, phù hợp với vật chứng đã thu giữ và tài liệu điều tra khác.

Cáo trạng số 162/CT-VKS ngày 27/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã quyết định truy tố Nguyễn Văn S tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d, h, khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi do mình thực hiện là phạm tội.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm tham gia phiên tòa phát biểu: Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm d, h, khoản 2 Điều 168; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù; Dân sự: Không; Vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch vỡ nửa bằng xi măng; Buộc bị cáo phải truy nộp 900.000đ để sung công quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ được và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 14/2/2022, tại khu vực đường mới đang xây dựng nối giữa đường Trần Hữu Dực và đường Phạm Hùng thuộc phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Văn S đã có hành vi dùng nửa viên gạch bằng xi măng đập vào vùng tai bên phải của ông Th và chiếm đoạt chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ - đen, BKS: 30Y7 – X có giá trị 3.000.000 đồng của ông Th.

Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Cướp tài sản” được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã dùng nửa viên gạch “Phương tiện nguy hiểm” đánh người bị hại để chiếm đoạt tài sản và bị cáo có 04 tiền án chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm d, h, khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã nên cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định.

Xét tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết áp dụng mức hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội. Bị cáo có nhân thân rất xấu, nhiều lần bị xét xử về hành vi chiếm đoạt tài sản, 04 bản án chưa được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình, không chịu tu dưỡng rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội mà vẫn tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Như vậy, thể hiện bị cáo rất coi thường pháp luật. Cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ điều kiện cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo cũng khắc phục bồi thường thương tích cho người bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Dân sự: Người bị hại - ông Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác về dân sự nên Tòa không xét.

Anh Đỗ Văn T không yêu cầu bị cáo phải trả số tiền 900.000đ. Đây là số tiền bị cáo hưởng lợi bất chính nên buộc bị cáo phải truy nộp để sung công quỹ Nhà nước.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch vỡ nửa bằng xi măng.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Cướp tài sản”.

1. Căn cứ vào điểm d, h, khoản 2, Điều 168; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/02/2022.

2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải truy nộp 900.000đ để sung công quỹ Nhà nước.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch vỡ nửa bằng xi măng (Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục THA dân sự quận Nam Từ Liêm theo biên bản giao, nhận vật chứng số 199 ngày 29/7/2022).

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 155/2022/HS-ST

Số hiệu:155/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về