Bản án về tội cướp tài sản số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 04/07/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2022/TLHS-ST ngày 21 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST - HS ngày 08 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Hùng T, sinh năm 1999 tại V, Long An; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Út; Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở hiện nay: Khu phố R, thị trấn H, huyện V, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 2/12; Cha: Huỳnh Thanh H (đã chết); Mẹ: Huỳnh Thị N; Bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; Tiền án: Ngày 23/11/2018 bị Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Ngày 02/7/2021 bị Trưởng Công an xã Vĩnh Thuận xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị bắt tạm giam từ ngày 01/11/2021 đến nay. (Có mặt)

2. Lê Trường H, sinh năm 1999 tại V, Long An; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở hiện nay: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Cha: Không biết tên; Mẹ: Lê Thị Ngọc M; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 23/8/2021 bị Trưởng Công an xã Vĩnh Bình xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị bắt tạm giam từ ngày 01/11/2021 đến nay. (Có mặt)

- Người bị hại:

1. Ông Trần Thái H1, sinh năm 2003. Địa chỉ: Ấp Q, xã T, huyện V, tỉnh Long An. (Có mặt)

2. Ông Phạm Chí D, sinh năm 2003. Địa chỉ: Ấp 3, xã A, huyện V, tỉnh Long An. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Hiền Đ, sinh năm 1999. Địa chỉ: Khu phố 4, thị trấn H, huyện V, tỉnh Long An. (Có mặt)

2. Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp R, xã T, huyện V, tỉnh Long An. (Vắng mặt)

3. Ông Phạm Thái L, sinh năm 1975. Địa chỉ: Khu phố 4, thị trấn H, huyện V, tỉnh Long An. (Có mặt)

 - Những người làm chứng:

1. Ông Lê Tấn P, sinh năm 1999. Địa chỉ: Địa chỉ: Ấp T, xã B, huyện V, tỉnh Long An. (Vắng mặt)

2. Em Phan Thị Xuân T, sinh năm 2005. Địa chỉ: Ấp 1, xã B, huyện V, tỉnh Long An. Người giám hộ: Ông Phan Văn T. (Vắng mặt)

3. Em Phạm Văn P, sinh năm 2006. Địa chỉ: Khu phố B, thị trấn H, huyện V, tỉnh Long An. Người giám hộ: Ông Phạm Văn M. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 25/10/2021, Huỳnh Hùng T, sinh năm 1999 cùng với Phạm Hiền Đ, Lê Tấn P và Lê Trường H sử dụng ma túy tại Nhà nghỉ 123 thuộc Ấp 2, xã B, huyện V. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài, T mượn xe mô tô Yamaha Exciter biển số 62D1- 067.06 của Đ, rồi rủ H đi về nhà. Lúc này, T đã mang theo 01 roi điện bỏ trong túi quần. T chạy xe của Đ, H chạy xe mô tô Sirius (xe của mẹ T) đi về hướng thị trấn H. Đi được khoảng 500m thì T, H rẽ vào một đường đan, T kêu H rút xăng từ xe mô tô Sirius đổ qua xe của Đ, T mở cốp xe Sirius lấy một con dao tự chế để lên ba ga xe và lấy băng keo đen dán biển số xe Đ và nói với H đi trộm cắp tài sản. H đồng ý làm theo yêu cầu của T. Do còn sớm, chưa thực hiện hành vi trộm cắp tài sản được nên T chở H đến trụ ATM của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Vĩnh Hưng rút 500.000đ. T nhìn thấy có hai xe mô tô: xe mô tô biển số 62D1-163.35 do Trần Thái H điều khiển và xe mô tô biển số 62D1- 211.84 do Phạm Chí D điều khiển chở theo sau hai người bạn của D. T điều khiển xe chạy theo, đi đến đoạn hố rác thuộc đường liên xã H - T, T đuổi kịp xe của H1, D nên T nảy sinh ý định cướp tài sản của H1, D. T lấy roi điện đưa lên bấm, yêu cầu D, H dừng xe lại. D, H dừng xe mô tô lại, T yêu cầu D lên xe mô tô do T chở, H lấy xe của H chở H1 đi về thị trấn H.

T, H chở D, H1 đi đến đường đê bao rẻ phải vào bãi đất trống thuộc ấp B, xã Th cả hai dừng xe lại bước xuống đất. T dùng chân đá, dùng roi điện chích vào người D, H1 3-4 lần. T yêu cầu D, H1 bỏ điện thoại và bóp tiền ra. Trần Thái H1 đưa điện thoại nhãn hiệu Vsmart Joy3 cho H, H tắt nguồn bỏ vào túi quần. Phạm Chí D đưa điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1 Pro và 01 cái bóp (ví) giấy tờ cho H. H xem không có tiền nên trả lại cái bóp cho D, còn điện thoại di động H tắt nguồn bỏ vào túi quần. T thấy tay D có đeo chiếc nhẫn vàng, T nói “Nó có chiếc nhẫn kia”, H trả lời “Lỡ rồi lấy luôn”, T yêu cầu D tháo nhẫn ra bỏ xuống đất. H lấy chiếc nhẫn vàng bỏ vào túi quần. T kêu D, H1 nằm sấp xuống đất rồi T, H lên xe mô tô của Đ chạy về, giấu xe mô tô ở cặp bờ ao thuộc khu phố R, thị trấn H. H giao 02 điện thoại di động và 01 nhẫn vàng vừa cướp được cho T cất giữ. Sau khi xảy ra sự việc, H chở D đến Công an huyện trình báo. Đến ngày 29/10/2021, T đến cơ quan Công an đầu thú và giao nộp toàn bộ vật chứng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 1185/KL-HĐĐG ngày 18/11/2021 của Hội đồng định giá tố tụng hình sự huyện Vĩnh Hưng kết luận:

1. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Joy3, mặt điện thoại màu đen, mặt sau nắp lưng màu trắng, số IMEI 351726116466165, 351726116466173 giá trị 2.000.000đ.

2. 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro, mặt điện thoại màu đen, mặt sau nắp lưng màu xanh, số IMEI 863980046160478, 863980046160460 giá trị 3.500.000đ.

3. 01 nhẫn vàng có đặc điểm: Nhẫn nam hột xanh, có tổng trọng lượng 1 chỉ 2,8 phân, nhẫn vàng có hột xanh 1,5 phân; nhẫn vàng có trọng lượng 1,13 chỉ, loại vàng 18K hàm lượng vàng 600 giá trị là 3.913.000đ.

Tổng giá trị tài sản là 9.413.000đ.

Tại kết luận giám định số 396/C09B ngày 17/01/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Hình ảnh cây dùi cui điện trong bản ảnh nhận dạng là công cụ hỗ trợ. Con dao gửi đi giám định là vũ khí thô sơ.

Ngày 27/10/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Hưng khởi tố vụ án hình sự, ngày 01/11/2021 khởi tố bị can đối với Huỳnh Hùng T, Lê Trường H về tội “Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Tại Cáo trạng số 07/CT-VKSVH ngày 21/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng truy tố bị cáo Huỳnh Hùng T, Lê Trường H về tội “Cướp tài sản”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Hùng T, Lê Trường H về tội “Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h khoản 1, Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Hùng T từ 04 năm đến 05 năm tù.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Trường H từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự. Trả cho ông Phạm Thái L 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng đen, số máy 1S9A-059087, số khung 9A0EY-059076. Tịch thu tiêu hủy 01 con dao có tổng chiều dài 44cm, cán dao tròn, bằng nhựa màu trắng dài 12,5cm; lưỡi dao bằng kim loại màu đen, đầu nhọn dài 31,5cm, nơi rộng nhất 5,5cm.

Tại Kết luận giám định số 3221/KL-KTHS ngày 03/6/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Khi sử dụng dùi cui điện như trong bản ảnh nhận dạng nếu dùng tấn công người khác (ở trạng thái sức khỏe bình thường) lâu dài không gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thống nhất nội dung Cáo trạng, tội danh, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi của các bị cáo: Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với Cáo trạng, Kết luận định giá tài sản số 1185/KL-HĐĐG ngày 18/11/2021, lời khai của những người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng, cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 23 giờ 30 phút ngày 25/10/2021 tại ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An, Huỳnh Hùng T và Lê Trường H cùng thực hiện hành vi cướp tài sản. T đã dùng chân đá, dùng roi điện chích vào người của Phạm Chí D và Trần Thái H1 để chiếm đoạt tài sản là 02 điện thoại di động và 01 nhẫn vàng 18K với tổng giá trị là 9.413.000 đồng.

[3] Các bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo đã dùng chân đá, dùng roi điện chích vào những người bị hại, làm người bị hại té xuống đất lâm vào tình trạng không chống cự được để chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Theo Kết luận giám định số 396/C09B ngày 17/01/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh thì hình ảnh cây dùi cui điện trong bản ảnh nhận dạng là công cụ hỗ trợ và theo Kết luận giám định số 3221/KL- KTHS ngày 03/6/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh thì khi sử dụng dùi cui điện như trong bản ảnh nhận dạng nếu dùng tấn công người khác (ở trạng thái sức khỏe bình thường) lâu dài không gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công. Vết thương của người bị hại chỉ bị trầy sướt ngoài da nên hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Cáo trạng số 07/CT-VKSVH ngày 21/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Đây là vụ án đồng phạm nhưng không phải là trường hợp phạm tội có tổ chức mà là đồng phạm giản đơn nên cần phân tích rõ vai trò của từng bị cáo và xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với từng bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Đối với bị cáo Huỳnh Hùng T: Bị cáo là người khởi sướng, rủ rê bị cáo Lê Trường H thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo chủ động mượn xe, chuẩn bị và sử dụng roi điện làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, khi đuổi kịp người bị hại T yêu cầu người bị hại lên xe để đến địa điểm thực hiện hành vi cướp tài sản, khi đến nơi T đã trực tiếp đá, dùng roi điện chích vào người bị hại nhằm thực hiện hành vi cướp tài sản nên trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người thực hành với vai trò chính. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, người bị hại Phạm Chí D có đơn xin bãi nại, người bị hại Trần Thái H1 xin giảm nhẹ hình phạt, sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã đầu thú và nộp lại toàn bộ tài sản cướp được của người bị hại nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 23/11/2018 bị Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Long An xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Trộm cắp tài sản” nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Đối với bị cáo Lê Trường H: Bị cáo là người được bị cáo Huỳnh Hùng T rủ rê thực hiện hành vi phạm tội, khi đuổi kịp người bị hại H1 chở bị hại để đến địa điểm thực hiện hành vi cướp tài sản, khi đến nơi T đã trực tiếp đá, dùng roi điện chích vào người bị hại làm bị hại không chống cự được thì bị cáo đã trực tiếp lấy điện thoại, nhẫn của H1, D bỏ vào túi quần nên trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người thực hành. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, người bị hại Trần Thái H1 xin giảm nhẹ hình phạt nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng hình sự: Không có.

[6] Xét tính chất nghiêm trọng của vụ án, hành vi cướp tài sản của các bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do đó cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Về vật chứng vụ án và tài sản liên quan đến vụ án:

[7.1] 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Joy3, mặt điện thoại màu đen, mặt sau nắp lưng màu trắng, số IMEI 351726116466165, 351726116466173, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro, mặt điện thoại màu đen, mặt sau nắp lưng màu xanh, số IMEI 863980046160478, 863980046160460, 01 nhẫn vàng có đặc điểm: Nhẫn nam hột xanh, có tổng trọng lượng 1 chỉ 2,8 phân, nhẫn vàng có hột xanh 1,5 phân; nhẫn vàng có trọng lượng 1,13 chỉ, loại vàng 18K hàm lượng vàng 600 do các bị cáo cướp của những người bị hại, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Hưng đã trả cho các bị hại là đúng quy định.

[7.2] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng đen, số máy 1S9A-059087, số khung 9A0EY-059076 do bị cáo Huỳnh Hùng T mượn của Phạm Hiền Đ thuộc sở hữu của ông Phạm Thái L, Đ và ông L không biết bị cáo T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho ông L là phù hợp.

[7.3] Đối với 01 con dao có tổng chiều dài 44cm, cán dao tròn, bằng nhựa màu trắng dài 12,5cm; lưỡi dao bằng kim loại màu đen đầu nhọn dài 31,5cm, nơi rộng nhất 5,5cm của bị cáo mang theo không sử dụng vào việc thực hiện hành cướp tài sản nhưng đây là hung khí có thể gây nguy hiểm cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[7.4] Đối với roi điện bị cáo Huỳnh Hùng T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội đã mất không thu hồi được nên Tòa án không đề cập đến.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[9] Đối với Phạm Hiền Đ cho Huỳnh Hùng T mượn xe mô tô biển số 62D1-067.06, nhưng Đ không biết T sử dụng xe này vào mục đích cướp tài sản nên không đủ cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Đ.

[10] Đối với hành vi Huỳnh Hùng T mua ma túy rồi cùng với Lê Trường H, Phạm Hiền Đ, Lê Tấn P sử dụng trái phép tại Nhà nghỉ 123 do chỉ có lời khai của những người này, vụ việc không bắt quả tang, không thu được ma túy, không test ma túy được nên không đủ cơ sở để xử lý hành vi của Huỳnh Hùng T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

[11] Đối với hành vi tàng trữ, sử dụng roi điện (công cụ hỗ trợ) của bị cáo Huỳnh Hùng T vi phạm lần đầu nên không có căn cứ, xem xét trách nhiệm hình sự.

[12] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Hùng T, Lê Trường H phạm tội “Cướp tài sản”.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17;

Điều 38; Điều 50; điểm h khoản 1, Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Hùng T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/11/2021.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Trường H 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/11/2021.

4. Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tạm giam các bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (04/7/2022) để bảo đảm thi hành án.

5. Về vật chứng vụ án và tài sản liên quan đến vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Trả cho ông Phạm Thái L 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng-đen, biển số 62D1-076.06, số máy 1S9A-059087, số khung 9A0EY- 059076.

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao có tổng chiều dài 44cm, cán dao tròn, bằng nhựa màu trắng dài 12,5cm; lưỡi dao bằng kim loại màu đen, đầu nhọn dài 31,5cm, nơi rộng nhất 5,5cm.

Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng đang quản lý.

6. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Huỳnh Hùng T, Lê Trường H mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

Báo cho các bị cáo, người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về