Bản án về tội cướp tài sản số 114/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG - TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 114/2022/HS-ST NGÀY 28/10/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 112/2022/TLST-HS, ngày 06 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2020/QĐXXST-HS ngày 14/10/2022 đối với bị cáo:

Lý Minh H, sinh ngày 17/02/2007 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trú tại: thôn K, xã V, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Dân tộc: Cao lan; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 05/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lý Văn P, sinh năm 1985 và bà: Vi Thị K1, sinh năm 1985; Anh, chị em ruột: có 02, bị cáo là thứ hai; Tiền án: Không.

Tiền sự:

+ Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã V số 07/QĐ-XPTT đối với Lý Minh H, thời hạn từ 11/01/2022 đến ngày 11/7/2022 (Giấy chứng nhận CHX quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã V ngày 12/7/2022).

+ Ngày 09/3/2022, Công an xã Hồng Lạc xử phạt vi phạm hành chính đối với Lý Minh H về hành vi trộm cắp tài sản.

- Nhân thân:

+ Quyết định xử phạt VPHC số 15/QĐ-XPHC ngày 16/10/2021, phạt cảnh cáo đối với Lý Minh H về hành vi trộm cắp tài sản.

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 16/QĐ-XPHC ngày 11/02/2022 của Công an xã V, hình thức phạt cảnh cáo đối với Lý Minh H về hành vi trộm cắp tài sản (10.000.000 đồng).

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, giao cho người đại diện hợp pháp là bà Vi Thị K1 (mẹ đẻ) giám sát. (Có mặt);

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: bà Vi Thị K1, sinh năm 1985; trú tại thôn K, xã V, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. (Có mặt);

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Vũ Thanh T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang. (Có mặt);

* Bị hại: Cháu Hoàng Minh H, sinh năm 2009; Trú tại: thôn T, xã T1, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt);

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Hoàng Văn M, sinh năm 1981; Trú tại: thôn T, xã T1, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt);

* Người làm chứng: Anh Tô Văn H1, sinh năm 2007; Trú tại: thôn K, xã V, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (Vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 22/7/2022, Lý Minh H, sinh ngày 17/02/2007, trú tại thôn K, xã V, huyện Sơn Dương điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream (xe không có biển số) chở Tô Văn H1, sinh ngày 06/10/2007 (trú cùng thôn) đi trên đoạn đường ĐT186 thuộc thôn K, xã V, huyện Sơn Dương thì gặp H Minh H, sinh ngày 06/01/2009 điều khiển xe đạp điện chở H Chí H2, sinh ngày 08/12/2013 (cùng trú tại thôn T, xã T1, huyện Sơn Dương) ngồi sau, đi ngược chiều với H và H1. H1 cầm đoạn dây có buộc lõi cuốn bằng nhựa thả dọc đường thì đoạn dây văng sang phần đường H và H1 đang đi (không văng vào người H và H1). Quan sát thấy H và H1 không phải người thôn K, xã V, H rủ H1 điều khiển xe mô tô quay lại đuổi đánh H và H1, H1 đồng ý. H quay xe đuổi theo khoảng 300 mét thì chặn được xe của H và H1 rồi ép vào lề đường. H xuống xe dùng tay (không rõ tay nào) tát 02-03 nhát vào mặt H và cầm chiếc dép bằng nhựa đang đi đánh vào mũ bảo hiểm H1 đang đội trên đầu. H tiếp tục dùng tay đấm, lên gối đánh nhiều nhát vào vùng đầu, mặt và ngực của H. Thấy vậy, H1 cũng dùng tay đánh, đấm nhiều nhát vào người H, không rõ đánh vào vị trí nào. H xin tha nhưng H và H1 vẫn tiếp tục đánh. H rút chìa khoá xe đạp điện của H đưa cho H1 vứt xuống đất. Thấy trong giỏ xe điện của H có 01 đôi dép mới màu đen, có in chữ “ICON” màu trắng, H bảo H1 đưa cho đôi dép thì mới trả chìa khoá xe, H1 không đồng ý. H nhìn thấy trên xe của H1 và H2 có dán nhiều hình đề can, H bắt H1 bóc đề can ra đưa cho H nhưng H1 không bóc, H dùng tay bóc đề can ra thì H1 gạt tay H đi, không cho H bóc. H liền cầm đôi dép của H1 để trong giỏ xe đi vào chân mình và để đôi dép cũ H đang đeo vào giỏ xe của H1, H1 cầm đôi dép của H vứt xuống đường và nói “đừng lấy dép của em” nhưng H không trả, tiếp tục đánh nhiều nhát vào người H1 (việc H lấy đôi dép của H1 không có sự bàn bạc, thống nhất với H2). Lúc này, anh Lý Quốc Đ, sinh năm 1986, trú tại thôn Tân Thành, xã V, huyện Sơn Dương đang cắt cỏ ở gần đó nhìn thấy đánh nhau, quát lên thì H không đánh H1 nữa và lên xe đi về.

Cùng ngày, anh H Văn M, sinh năm 1981, trú tại thôn T, xã T1, huyện Sơn Dương (bố của H1) và H1 đã đến Công an xã V, huyện Sơn Dương để trình báo sự việc.

Tại kết luận số 56 ngày 18/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Dương kết luận: 01 đôi dép nam, cỡ 39, chất liệu nhựa dẻo, màu đen, trên quai dép nền màu đen có chữ ICON màu trắng và có nhiều chữ cái màu đen khác nhau, mua mới ngày 22/7/2022 có giá trị là 70.000 đồng (Bảy mươi nghìn đồng).

Tại Cáo trạng số 111/CT-VKSSD, ngày 06/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố: Lý Minh H về tội Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lý Minh H theo tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Lý Minh H phạm tội “Cướp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 90, Điều 91; Điều 96 Bộ luật hình sự. Áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với Lý Minh H từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng kể từ ngày Lý Minh H bị đưa đi trường giáo dưỡng.

- Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bị hại cháu H Minh H 01 đôi dép nam, cỡ 39, chất liệu nhựa dẻo, màu đen, trên quai dép nền màu đen có chữ “ICON” màu trắng và có nhiều chữ cái màu đen.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại H Minh H và người đại diện không yêu cầu bồi thường gì về phần dân sự nên không xem xét.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa và người đại diện hợp pháp cho bị cáo đều nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương về căn cứ áp dụng điều luật và biện pháp tư pháp. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với bị cáo Lý Minh H thời hạn 01 năm 03 tháng và không có ý kiến tranh luận gì thêm.

Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì. Lời nói sau cùng bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin hứa sẽ không vi phạm pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lý Minh H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá, lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ trên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 22/7/2022, tại đoạn đường ĐT186 thuộc thôn K, xã V, huyện Sơn Dương, Lý Minh H, sinh ngày 17/02/2007 (15 tuổi, 05 tháng, 05 ngày) có hành vi dùng tay tát 02-03 nhát vào mặt Hoàng Minh H1, sinh ngày 06/01/2009 và cầm chiếc dép bằng nhựa đang đi đánh vào mũ bảo hiểm H1 đang đội trên đầu; dùng tay đấm, lên gối đánh nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, ngực của H1 và chiếm đoạt của H1 01 đôi dép mới màu đen, có in chữ “ICON” màu trắng trị giá 70.000 đồng (bảy mươi nghìn đồng). Tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản, H1 được 13 tuổi 6 tháng 16 ngày.

Hành vi của bị cáo Lý Minh H đã phạm vào tội: "Cướp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự;

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe, quyền sở hữu của công dân là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự trị an ở địa phương, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Tuy nhiên, do nhận thức pháp luật của bị cáo còn hạn chế, thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo 15 tuổi 05 tháng 05 ngày nên cần áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cho bị cáo. HĐXX xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mà áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng trong một thời gian nhất định để bị cáo học tập, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường cũng bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa đối với bị cáo để bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

[3] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[4] Về trách nhiệm dân sự và hình phạt bổ sung:

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu bồi thường gì về phần dân sự nên HĐXX không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người chưa thành niên không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án:

Quá trình điều tra có tạm giữ 01 đôi dép nam, cỡ 39, chất liệu nhựa dẻo, màu đen, trên quai dép nền màu đen có chữ “ICON” màu trắng và có nhiều chữ cái màu đen. Xét thấy, đây là đôi dép của bị hại nên cần tuyên trả lại cho bị hại.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Các vấn đề khác:

Đối với Tô Văn H1, khi H cướp dép của H1, H không bàn bạc với H1 do vậy, hành vi của H1 không cấu thành tội Cướp tài sản nên HĐXX không xem xét.

Đối với hành vi gây thương tích của Lý Minh H và Tô Văn H1 cho Hoàng Minh H, H1 và người đại diện có đơn từ chối giám định thương tích nên không xem xét xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 90, Điều 91; Điều 96 Bộ luật hình sự.

1. Về tội danh và biện pháp tư pháp: Tuyên bố bị cáo Lý Minh H phạm tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với bị cáo Lý Minh H. Thời hạn chấp hành tại trường giáo dưỡng là 01 (một) năm 03 (ba) tháng, kể từ ngày Lý Minh H bị đưa đi trường giáo dưỡng.

Công an huyện Sơn Dương có trách nhiệm đưa Lý Minh H vào trường giáo dưỡng. (Tại trường giáo dưỡng số 2, địa chỉ: xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bị hại cháu Hoàng Minh H: 01 đôi dép nam, cỡ 39, chất liệu nhựa dẻo, màu đen, trên quai dép nền màu đen có chữ “ICON” màu trắng và có nhiều chữ cái màu đen.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương).

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

- Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 114/2022/HS-ST

Số hiệu:114/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về