Bản án về tội cướp tài sản số 09/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 85/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Lục l, sinh năm 1988 tại Vĩnh Long; nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định; nơi đã từng sinh sống: Số D, khóm B, phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Vô danh, mẹ Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; bị cáo chưa có vợ; tiền án: 03 lần ( Ngày 20/8/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 03/5/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 06/9/2013, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm tuyên phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12/9/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xử phạt 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị khởi tố tạm giam trong vụ án khác tại nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Đồng Tháp, được trích xuất dẫn giải đến phiên tòa.

* Bị hại: Huỳnh Thị Hồng P, sinh năm 1982 (Có mặt). HKTT: Ấp P, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

Nơi đang cư trú: Số F, đường P, phường D, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22h ngày 09/3/2022, chị Huỳnh Thị Hồng P ngồi trong tiệm H tại địa chỉ số F, đường P, phường D, thành phố V đang xem điện thoại. Bất ngờ, Nguyễn Lục L trên tay cầm hai bóng đèn loại dài khoảng 60cm đi vào trong tiệm và hỏi chị P để tìm người phụ nữ tên L1. Khi Chị P vừa trả lời là ở đây không có ai tên L1 thì ngay lập tức Lăng đập bóng đèn lên bàn làm vỡ một đầu bóng đèn, đồng thời dùng đoạn bóng đèn còn lại đâm vào vùng tay, ngực chị P gây thương tích. Do bị tấn công bất ngờ nên chị P bỏ chạy vào trong nhà, nhìn thấy 01 (một) con dao (có chiều dài 48cm, cán dao bằng gỗ, phần đầu cán dao được bọc kim loại có chiều dài 14cm, lưỡi dao bằng kim loại có chiều dài 34cm, loại dao mũi bằng, một mặt cắt, hai mặt bên của cây dao đã bị rỉ sét) thường ngày dùng chặt dừa để ở bậc thềm đường xuống nhà bếp, chị P cầm dao chạy lên phòng khách để chống trả lại thì bị L dùng các chậu cây kiểng để trước cửa ném vào người chị P làm trúng tay, nên con dao rơi xuống đất. Chị P bỏ chạy vào trong phòng ngủ định chốt cửa lại thì bị tên L xông tới đạp cửa vào phòng và dùng tay trái cầm lấy con dao của chị P vừa bị rơi chém nhiều nhát vào vùng đầu và vai phải chị P, vừa chém L giật lấy chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A73 của chị P đang cầm trên tay rồi tẩu thoát. Chị P được gia đình đưa đi bệnh viện điều trị vết thương đồng thời báo với Cơ quan Công an.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Nguyễn Lục L bỏ trốn lên thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến Bến xe M, L đã bán chiếc điện thoại Oppo A73 màu xanh cướp được của chị P cho một tiệm điện thoại không nhớ rõ biển hiệu và địa chỉ để lấy tiền tiêu xài cá nhân và sống lang thang ở nhiều nơi, đến ngày 01/9/2022 quay trở về thành phố V thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Đồng Tháp bắt tạm giam do có hành vi “Cố ý gây thương tích”.

Ngày 08/4/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã trưng cầu giám định tỷ lệ thương tích của chị P. Tại kết luận pháp y về thương tích số 49/2022/TgT ngày 20/4/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh V xác định các vết thương trên người chị P gồm: 02 vết thương vùng đầu 3cm, 4cm bờ nham nhở do vật sắc gây nên, hiện tại sẹo kích thước 3x0,2cm và 2x0,2cm không di chứng cố tật; vết thương vai phải 3cm, bờ gọn do vật sắc gây nên, hiện tại sẹo kích thước 3,5x0,2cm không di chứng cố tật; vết thương ngực phải 3cm, bờ gọn do vật sắc gây nên, hiện tại sẹo kích thước 3,5 x 0,3cm không di chứng cố tật; vết thương cẳng tay trái 6cm bờ gọn do vật sắc gây nên, hiện tại sẹo kích thước 6,5x0,4cm không di chứng cố tật; tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 11%.

Ngày 06/4/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã trưng cầu định giá đối với chiếc điện thoại Oppo A73 màu xanh mà đối tượng đã chiếm đoạt của chị P theo Yêu cầu định giá tài sản số 21/ĐGTS-CSHS; theo Kết luận định giá tài sản số 18/HĐĐGTSTTHS ngày 06/4/2022 của Hội đồng định giá tà sản trong tố tụng hình sự thành phố V xác định, giá trị còn lại của chiếc điện thoại Oppo A73 là 3.843.000 đồng.

- Đối với các vật chứng thu giữ gồm 01 con dao có chiều dài 48cm, cán dao bằng gỗ, phần đầu cán dao được bọc kim loại có chiều dài 14cm, lưỡi dao bằng kim loại có chiều dài 34cm, loại dao mũi bằng, một mặt cắt, hai mặt bên của cây dao đã bị rỉ sét đã nhập kho vật chứng theo lệnh nhập kho vật chứng số 38/LNK-CSHS ngày 12/7/2022 - Trách nhiệm dân sự: Bị hại Huỳnh Thị Hồng P yêu cầu bị cáo Nguyễn Lục L phải bồi thường thiệt hại về tài sản và các khoản chi phí điều trị vết thương, tiền phẩu thuật thẩm mỹ, cụ thể như sau: tiền chi phí thuốc điều trị 2.541.000 đồng (có hóa đơn kèm theo); chiếc điện thoại Oppo A73 màu xanh:

4.000.000 đồng (bốn triệu đồng); chi phí thẩm mỹ các vết thương là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng); tổng cộng: 14.541.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm bốn mươi mốt nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 83/CT-VKSTPVL, ngày 21/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã truy tố bị cáo Nguyễn Lục L về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm c, h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm;

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và phát biểu quan điểm các vấn đề khác liên quan đến vụ án: Khẳng định nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã đề nghị truy tố đối với bị cáo Nguyễn Lục L về tội “Cướp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật; phân tích đánh giá tác hại của hành vi bị cáo đã thực hiện, nhận định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; đề nghị truy tố bổ sung bị cáo tình tiết định khung tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Lục L phạm tội “Cướp tài sản”, áp dụng điểm c, d, h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Lục L mức án từ 08 (T1) năm đến 09 (C) năm tù; buộc bị cáo bồi thường cho bị hại 14.541.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 con dao bị rỉ sét; buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 728.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Lời trình bày của bị cáo: Thừa nhận đã thực hiện hành vi cướp tài sản như cáo trạng miêu tả. Tại phiên tòa, bị cáo nhận ra sai trái, hứa sau này sửa đổi, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt; đồng ý đồng thường 14.541.000 đồng cho bị hại.

- Lời trình bày của bị hại: Yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại các khoản gồm: Chi phí thuốc điều trị 2.541.000 đồng; chiếc điện thoại Oppo A73 màu xanh 4.000.000 đồng; chi phí thẩm mỹ các vết thương là 8.000.000 đồng. Tổng cộng các khoảng là 14.541.000 đồng. Đề nghị xử lý nghiêm bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời trình bày và khai nhận của bị cáo Nguyễn Lục L tại phiên tòa hôm nay xét thấy phù hợp với diễn biến khách quan của vụ án, được thể hiện qua các lời khai bị cáo, bị hại tại Cơ quan điều tra, biên bản xác định địa điểm gây án (Kèm theo bản ảnh), kết luận giám định pháp y và định giá tài sản, các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận rằng: Vào khoảng 22h ngày 09/3/2022, bị cáo Nguyễn Lục L đến tiệm H tại số F, đường P, phường D, thành phố V. Tại đây, bị cáo L đã thực hiện hành vi sử dụng hung khí là 02 bóng đèn Neon dài 60cm và 01 con dao (Loại dao chặt dừa) tấn công bị hại Huỳnh Thị Hồng P vào vùng tay, ngực, chém nhiều nhát vào vùng đầu và vai phải chị P rồi cướp lấy chiếc điện thoại hiệu Oppo A73 của bị hại P đang cầm trên tay rồi nhanh chóng tẩu thoát. Theo kết luận pháp y về thương tích số 49/2022/TgT xác định: tỷ lệ tổn thương cơ thể bị hại P do thương tích gây nên hiện tại là 11%; theo kết luận định giá tài sản số 18/HĐĐGTSTTHS ngày 06/4/2022 của Hội đồng đồng định giá tà sản trong tố tụng hình sự thành phố V xác định, giá trị còn lại của chiếc điện thoại Oppo A73 là 3.843.000 đồng.

Dấu hiệu hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Lục L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản”. Bản thân của bị cáo có nhiều tiền án chưa được xóa án tích thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, lần này lại phạm tội rất nghiêm trọng, vì vậy tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c, d và h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã truy tố đối với bị cáo và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, dùng vũ lực thực hiện tội phạm để xâm phạm sức khỏe bị hại rồi chiếm đoạt tài sản hợp pháp của bị hại Huỳnh Thị Hồng P được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương và gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội; bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bản thân đã từng phạm tội chiếm đoạt tài sản không chịu từ bỏ hướng thiện lại bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội; thực hiện với hành vi cố ý; bị cáo thực hiện tội phạm đến cùng (Rượt bị hại chạy vào phòng, bị cáo tung cửa vào chém bị hại để chiếm đoạt chiếc điện thoại trên tay bị hại). Vì vậy, cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm e khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử lý nghiêm đối với bị cáo để răn đe trường hợp tương tự và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả.

Nhưng xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà nhận tội, thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải. Vì vậy, xem đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại tất cả các khoản 14.541.000 đồng, bị hại không còn yêu cầu gì thêm. Vì vậy, buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 14.541.000 đồng.

[5]. Vật chứng đang tạm giữ: Đối với con dao bị sét là hung khi gây án nên tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lục L phạm tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm c, d, h khoản 2 Điều 168; điểm e khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Lục L 10 (M1) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Lục L bồi thường thiệt hại cho bị hại Huỳnh Thị Hồng P số tiền 14.541.000 đồng (Mười bốn triệu, năm trăm bốn mươi mốt ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường hợp Cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Vật chứng có trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/11/2022 giữa Công an thành phố V và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Long được xử lý như sau: Tịch thu tiêu hủy con dao có chiều dài 48cm đã bị rỉ sét.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Quốc hội. Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 728.000 đồng (Bảy trăm hai mươi tám ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, báo cho bị cáo và bị hại biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để xin Tòa án tỉnh Vĩnh Long xét xử lại phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về