TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 02/2023/HS-PT NGÀY 09/01/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 09/01/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh G mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 361/2022/TLPT-HS ngày 06/12/2022 đối với bị cáo Hoàng Văn Đ, do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn Đ đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2022/HS-ST ngày 26/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh G;
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Hoàng Văn Đ, sinh năm 1997. Tên gọi khác: Không.
Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn V, xã V, huyện V, tỉnh B;
Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 08/12; đảng, đoàn thể: Không;
Con ông Hoàng Văn T, sinh năm 1974; Con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975; Vợ, con: Chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam ngày 12/5/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh G ( Có mặt tại phiên toà).
Trong vụ án còn có 01 bị cáo khác, 01 người bị hại và 04 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Hữu T, sinh năm 1990 trú tại tổ dân phố Hoàng Mai 1, thị trấn Nếnh, huyện V, tỉnh G và bị cáo Hoàng Văn Đ, sinh năm 1997 trú tại thôn V, xã V, huyện V, tỉnh B có mối quan hệ quen biết nhau thông qua các mối quan hệ xã hội. Do không có công ăn việc làm ổn định, biết ở các khu Công nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhiều người ở nhiều địa phương đến làm việc có tài sản, nên T rủ Đ đi tìm xem ai để tài sản sơ hở thì chiếm đoạt, Đ đồng ý.
Khoảng 05 giờ ngày 29/4/2022, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Espero, không đeo biển kiểm soát đem theo 01 chiếc gậy rút bằng kim loại, có 03 khúc, dài 65cm, phần tay cầm được bọc cao su màu đen dài 14cm để ở trong cốp xe, chở Đ đi từ thị trấn Nếnh, huyện V, tỉnh G đến khu Công nghiệp Vân Trung tìm người có tài sản để sơ hở thì chiếm đoạt. Khoảng 05 giờ 15 phút đi đến đoạn đường nội bộ thuộc khu Công nghiệp Vân Trung 2, xã Nội Hoàng, huyện Y, tỉnh G, T và Đ phát hiện thấy một thanh niên đang đi bộ phía trước cùng chiều trên vỉa hè, trên tay có cầm một chiếc điện thoại di động. Đó là anh Hoàng Văn T1, sinh năm 1997 ở xóm Khẻo Mèo, xã Quang Long, huyện H, tỉnh C, là công nhân Công ty L đang trên đường về phòng trọ ở thôn Phúc Long, xã Tăng Tiến, huyện V, tỉnh G. Thấy trên đường có nhiều công nhân tan ca đi làm về khó chiếm đoạt được tài sản của anh T1 nên T đỗ xe lại đến bảo anh T1 là “Mày nhìn giống thằng nợ tiền anh”, thì anh T1 có nói “Em không nợ ai”, thì T bảo anh T1 “Lên xe anh đèo về chếch cam nếu không phải thì thôi”, tin tưởng T nói thật nên anh T1 đồng ý. Toàn điều khiển xe mô tô, chở anh T1 ngồi giữa, Đ ngồi sau đi đến bãi đất trống thuộc thôn Tiên Phong, xã Nội Hoàng, huyện Y, tỉnh G. Thấy khu vực này vắng người qua lại, T đỗ xe bảo anh T1 xuống, lúc này T đứng đối diện anh T1 ở đầu xe, còn Đ đứng ở cuối xe chặn không cho anh T1 chạy. T lấy chiếc gậy rút làm bằng kim loại đem theo để ở trong cốp xe ra đe doạ, đánh anh T1, yêu cầu anh tài đưa tiền và điện thoại di động cho T. Thấy đoạn đường vắng không có người qua lại, không thể chống cự được, nên anh T1 đã đưa chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note11Pro5G-128GB và 900.000 đồng cho T. Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại và tiền của anh T1, T yêu cầu anh T1 đọc mật khẩu để mở điện thoại, sau đó tháo sim trả lại anh T1 rồi cùng Đ đem chiếc điện thoại chiếm đoạt được đến cửa hàng mua bán điện thoại của anh Trần Minh Q, sinh năm 1999 ở thôn Tam Tầng, xã Q, huyện V, tỉnh G bán được 3.000.000 đồng. T chia cho Đ 1.500.000 đồng, T lấy 2.000.0000 đồng, còn 350.000 đồng dùng ăn tiêu chung hết.
Đối với anh Hoàng Văn T1, sau khi bị T và Đ cướp tiền và điện thoại, ngày 11/5/2022, anh T1 đã làm đơn trình báo.
Sau khi nhận được đơn trình báo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đến hiện trường tiến hành khám nghiệm, trích xuất và thu giữ dữ liệu camera an ninh khu vực xảy ra vụ án phát hiện người thực hiện hành vi phạm tội là T và Đ.
Ngày 12/5/2022, biết hành vi phạm tội của mình bị phát hiện đang bị điều tra, T và Đ đến cơ quan điều tra Công an huyện Y đầu thú và giao nộp chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22YA- xxxxx và 01gậy rút bằng kim loại, có 03 khúc, dài 65cm, phần tay cầm được bọc cao su màu đen dài 14cm. T khai là phương tiện và hung khí sử dụng thực hiện hành vi cước tài sản của anh T1.
Ngày 13/5/2022, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Hữu T nhưng không thu giữ được gì; khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Văn Đ thu giữ: 01 Căn cước công dân mang tên Hoàng Văn Đ.
Đối với chiếc điện thoại T và Đ cướp được đem đến bán cho anh Q, anh Q không biết chiếc điện thoại đó do phạm tội mà có, nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Anh Q đã bán chiếc điện thoại cho người không biết tên, địa chỉ, nên cơ quan điều tra không thu giữ được.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 34, ngày 16/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu RedmiNote11Pro 5G-128GB, màu xanh do bị can T và Đ chiếm đoạt của anh T1 trị giá 7.375.000 đồng.
Ngày 29/8/2022, Cơ quan điều tra cho bị can T, Đ xem lại đoạn vi deo. Kết quả bị can T, Đ và anh T1 nhận dạng được người điều khiển xe mô tô là T, người thanh niên ngồi giữa là anh T1, còn Đ ngồi sau cùng.
Đối với chiếc xe mô tô T và Đ dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, qua điều tra xác định xe có Biển kiểm soát là 22YA - xxxxx tên đăng ký xe là Trương Văn Q, sinh 2001 ở thôn Phúc Long 4, xã Thành Long, huyện H, tỉnh T, sau đó anh Q đã bán cho chị Trần Thị N, sinh 2003 cùng ở thôn Phúc Long 4, xã Thành Long, huyện H, tỉnh T, chị N bán cho người không biết tên ở huyện V, tỉnh G. Chiếc xe mô tô trên, T khai là của T mua từ năm 2021 để sử dụng.
Anh Hoàng Văn T1 yêu cầu các bị cáo phải bồi thường 8.275.000 đồng, gia đình bị cáo Đ đã bồi thường cho bị hại số tiền 3.700.000 đồng.
Vật chứng vụ án gồm: Xe mô tô 22YA-xxxxx và 01 chiếc gậy rút bằng kim loại; 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn Đ được chuyển đến Thi hành án dân sự huyện Y để giải quyết theo pháp luật.
Tại bản cáo trạng số: 61/CT-VKSYD ngày 01/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d, h khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự; bị cáo Hoàng Hữu Đ về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2022/HS-ST ngày 26/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh G đã quyết định:
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54;
Điều 17, Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2022.
Ngoài ra bản án còn tuyên về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/11/2022, bị cáo Hoàng Văn Đ nộp đơn kháng cáo. Nội dung kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Hoàng Văn Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do: Tòa sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cướp tài sản” là đúng người, đúng tội. Về hình phạt, Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng là nặng, nhưng bị cáo không xuất trình được đồ vật, tài liệu gì liên quan đến kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đ diện VKSND tỉnh G thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Văn Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo Hoàng Văn Đ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Bị cáo Hoàng Văn Đ không có ý kiến tranh luận gì.
Bị cáo Hoàng Văn Đ nói lời sau cùng: Không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn Đ đã được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Văn Đ thì thấy: Hồi 05 giờ 15 phút ngày 29/4/2022, tại khu vực bãi đất trống thuộc thôn Tiên Phong, xã Nội Hoàng, huyện Y, tỉnh G; Nguyễn Hữu T và Hoàng Văn Đ có hành vi sử dụng 01gậy rút bằng kim loại, có 03 khúc, dài 65cm, phần tay cầm được bọc cao su màu đen dài 14cm đe dọa, đánh anh Hoàng Văn T1, sinh năm 1997 trú tại xóm Khẻo Mèo, xã Quang Long, huyện H, tỉnh C, là công nhân Công ty L đang trên đường về phòng trọ ở thôn Phúc Long, xã Tăng Tiến, huyện V, tỉnh G để chiếm đoạt 900.000 đồng và 01 điện thoại Redmi Note11Pro 5G - 128GB trị giá 7.375.000 đồng. Tổng trị giá tài sản T và Đ chiếm đoạt của anh Hoàng Văn T1 là 8.275.000 đồng.
Như vậy, hành vi của bị cáo Hoàng Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Hoàng Văn Đ về tội “ Cướp tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn Đ thấy: Tại phiên tòa, bị cáo chỉ có yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra giải quyết.
Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Án sơ thẩm xác định bị cáo Hoàng Văn Đ không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, là có căn cứ.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra truy tố xét xử, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; sau khi vụ việc bị phát hiện bị cáo đã ra đầu thú; đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 3.700.000 đồng, bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ.
Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Văn Đ là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, là tương xứng với hành vi phạm tội đối với bị cáo.
Tại quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn Đ không xuất trình được các tình tiết gì mới, do vậy không có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên án sơ thẩm như đề nghị của Đ diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn Đ không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Văn Đ; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2022.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp tài sản số 02/2023/HS-PT
Số hiệu: | 02/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về