Bản án về tội cướp giật tài sản và sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 305/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 305/2021/HSST NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 329/2021/HSST ngày 10 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 328/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân Minh T, sinh năm: 1998; HKTT: Số 13 đường X, xã V, Thanh Trì, Hà Nội; Chỗ ở: Lang thang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Con ông: Nguyễn Xuân T (Đã chết); Con bà: Nguyễn Thị H; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Nhân thân: Năm 2017 bị TAND thành phố Hà Nội xử 09 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Đã xóa án tích).

Danh chỉ bản số 283 lập ngày 30/3/2021 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 21/3/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Chị Cao Nguyễn Quỳnh L - Sinh năm: 1999; HKTT: Phường T, thành phố Vinh, Nghệ An; Nơi ở: Số 1 Phố K, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Đình G - Sinh năm: 1974; HKTT và trú tại: Số 37 phố T, phường B, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên toà.

+ Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm: 1980; HKTT và trú tại: Số 13 đường X, xã V, Thanh Trì, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Có mặt tại phiên tòa.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10h30’ ngày 20/02/2021, Nguyễn Xuân Minh T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, không đeo biển kiểm soát đi đến khu vực ngã tư Trần Đại Nghĩa - Lê Thanh Nghị thì nhìn thấy chị Cao Nguyễn Quỳnh L (SN 1999, HKTT: Phường T, thành phố Vinh, Nghệ An; Nơi ở: Số 1 Phố K, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội) điều khiển xe máy một mình đang dừng đèn đỏ nghe điện thoại nên T nảy sinh ý định cướp giật điện thoại. T lại gần nhờ chị L dẫn đường đến cổng bệnh viện Bạch Mai mục đích tìm sơ hở để cướp giật điện thoại. Khi đến khu vực cổng bệnh viện Bạch Mai, T hỏi mượn điện thoại của chị L với lý do gọi điện cho người nhà đang nằm trong bệnh viện thì chị L đồng ý. Trong khi sử dụng điện thoại T chờ chị L sơ hở để bỏ chạy nhưng do đường đông, chị L đứng chắn phía trước không đi được nên T trả lại chiếc điện thoại trên cho chị L. Sau đó, chị L điều khiển xe máy đi về hướng đường Giải Phóng còn T điều khiển xe máy đi theo phía sau chị L. Khi đến khu vực đối diện số 161 Giải Phóng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội thì chị L dừng xe và rút điện thoại ra sử dụng. Lúc này, T điều khiển xe máy đi qua chị L rồi quay đầu xe máy áp sát chị L để tiếp tục hỏi mượn điện thoại nhưng chị L không đồng ý. Tiếp đó, T dùng tay giật chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR 64Gb màu trắng của chị L rồi điểu khiển xe máy bỏ chạy. Khi đi qua khu vực cổng bệnh viện Bạch Mai khoảng 200m thì T quay đầu xe đi về hướng Giải Phóng. T điều khiển xe đến khu vực bến xe Nước Ngầm thì dừng lại.

Lúc này, T kiểm tra bên trong phần ghi chú của máy điện thoại vừa cướp giật được của chị L (do máy điện thoại vẫn đang ở trạng thái mở) có lưu số tài khoản, mật khẩu tài khoản Internet Banking hai ngân hàng Vietinbank, Techcombank và mật khẩu tài khoản icloud của điện thoại. Thấy trong tài khoản hai ngân hàng trên có tổng số tiền 8.200.000đ (tám triệu hai trăm nghìn đồng), T gọi điện đến số điện thoại 0346666666 gặp một người đàn ông tên Lâm (chưa rõ nhân thân lai lịch) để giao dịch nạp tiền chơi game trên mạng.

Sau đó, T truy cập vào hai tài khoản ngân hàng của chị L để chuyển khoản hai lần. Cụ thể: Lần thứ nhất, T chuyển số tiền 7.000.000đ (bảy triệu đồng) từ số tài khoản 100868797753 ngân hàng Vietinbank, chủ tài khoản Cao Nguyễn Quỳnh L đến số tài khoản 104872651517 ngân hàng Vietinbank, chủ tài khoản mang tên Chu Quang S. Lần thứ hai, T chuyển khoản số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) từ số tài khoản 19035212100012 ngân hàng Techcombank chủ tài khoản Cao Nguyễn Quỳnh L đến số tài khoản 19036642195013 ngân hàng Techcombank chủ tài khoản Chu Quang Thanh. Hai lần chuyển khoản trên, T đều ghi nội dung là “ben thienlong999”.

Sau đó, T cầm chiếc điện thoại trên về nhà rồi thoát tài khoản icloud đồng thời vào phần cài đặt xoá hết dữ liệu bên trong, cài lại hiện trạng ban đầu và giữ lại máy điện thoại để sử dụng. Đến ngày 20/3/2021, do thiếu tiền tiêu xài nên T đã mang chiếc Iphone XR 64Gb màu trắng cướp giật được của chị L đến cửa hàng kinh doanh cầm đồ tại địa chỉ số 37 phố T, phường B, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và cầm cố với giá 5.000.000đ (năm triệu đồng) cho anh Nguyễn Đình G (SN: 1974; HKTT: Số 37 phố T, phường B, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội).

Tại Bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 76/KL-HĐ ĐGTS ngày 01/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hai Bà Trưng kết luận:

“01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone XR, màu trắng 64 GB có số Imei: 356450107843283, đã qua sử dụng trị giá: 8.000.000 đ (tám triệu đồng).” Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân Minh T khai nhận hành vi phạm tội như trên. T khai chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, không có biển kiểm soát, T mượn của một nam thanh niên không quen biết ở quán game khu vực thôn Vĩnh Ninh, Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì. Ngoài ra, T khai nhận số tiền 8.000.000 đ (tám triệu đông) chiếm đoạt từ tài khoản ngân hàng của chị L đã chuyển khoản cho người tên Lâm (do thường lên mạng chơi game nên biết là Lâm) sử dụng số điện thoại 0346666666 để nạp tiền tài khoản game.

Tại Cơ quan điều tra, anh Nguyễn Đình G khai nhận khi cầm cố chiếc điện thoại Iphone XR màu trắng T mang đến thì anh G không biết đây là tài sản T cướp giật mà có, sau khi được Cơ quan Công an thông báo thì anh G đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại trên. Anh G không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập đến vấn đề xử lý.

Quá trình điều tra xác định anh Chu Quang S – chủ tài khoản nhận 8.000.000 đồng do T chuyển tiền từ tài khoản của chị Cao Nguyễn Quỳnh L có đăng ký HKTT tại thôn S, xã T, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Hiện, S không có mặt tại nơi cư trú.

Đối với số điện thoại 0346666666, quá trình điều tra xác định chủ tài khoản là anh Nguyễn Văn N (SN 1991, địa chỉ Việt Xuân, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc). Năm 2017, anh N mua số sim trên với giá 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng về sử dụng. Đến đầu năm 2020, có một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện đến số 0346666666 để thuê sim với giá 5.000.000 đồng/01 tháng. Do không có nhu cầu sử dụng nên anh N đồng ý. Khi thuê giữa hai bên không ký hợp đồng và không để lại giấy tờ gì. Anh N không biết mục đích người đàn ông thuê sim sử dụng để làm gì. Đến khoảng tháng 6 năm 2021, người đàn ông trên không trả tiền thuê sim nữa nên anh N đã thu hồi lại sim số điện thoại 0346666666 để sử dụng. Anh N khai không quen biết, không quan hệ gì với Chu Quang S và Nguyễn Xuân Minh T.

Đối với 01 chiếc Iphone XR màu trắng, ngày 17/06/2021, Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trao trả số tài sản trên cho chị L. Sau khi nhận được tài sản, chị L không có yêu cầu, đề nghị gì. Đối với chiếc sim trong điện thoại của chị L mà T đã vứt đi, chị L không có yêu cầu, đề nghị gì. Ngoài ra, T đã tác động gia đình khắc phục hậu quả số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng) mà T chiếm đoạt được cho chị L nên chị L không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave không biển kiểm soát T sử dụng để đi cướp giật tài sản, T đã trả lại cho nam thanh niên không quen biết ở quán game khu vực thôn Vĩnh Ninh, Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì. Hiện, Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng không thu giữ được chiếc xe trên.

Ngày 15/10/2021. Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định tách vụ án hình sự để tiếp tục xác minh làm rõ hành vi cùa Chu Quang S, Nguyễn Văn N là đối tượng liên quan được Nguyễn Xuân Minh T chuyển khoản số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng) từ chiếc điện thoại Iphone XR 64Gb màu trắng đã cướp giật được của chị Cao Nguyễn Quỳnh L.

Tại Bản cáo trạng số 310/CT/VKS-HS ngày 09 tháng 11 năm 2021 đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Minh T về tội Cướp giật tài sản quy định tại Điểm d khoản 2 Điều 171 và tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản quy định tại điểm a khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan công an, công nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng. Bị cáo nhận thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo cơ hội sửa chữa sai lầm và có cơ hội làm lại cuộc đời.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H khai: Sau khi phạm tội, bị cáo T đã thật sự ân hận về hành vi của mình và đã tác động gia đình và bà H đã cho bị cáo số tiền 8.000.000 đồng để bồi thường trả toàn bộ cho chị L. Ngoài ra, tại phiên tòa, bà H cũng không yêu cầu bị cáo T phải trả lại số tiền trên cho bà. Bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm a khoản 1 Điều 290, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 55 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Minh T: Từ 48 tháng đến 54 tháng tù về tội: “Cướp giật tài sản” cộng với hình phạt từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội: “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt bị cáo phải chấp hành cho hai tội là: Từ 57 tháng đến 66 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:

+ Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại Iphone XR màu trắng và nhận được tiền bồi thường khắc phục hậu quả do bị cáo tác động gia đình bồi thường và không có yêu cầu gì về dân sự nên không xem xét.

+ Buộc bị cáo truy nộp số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo được hưởng lợi bất chính từ việc bán chiếc điện thoại Iphone XR để sung công quỹ nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Không Bị cáo nói lời sau cùng, nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 10h30’ ngày 20/02/2021 tại khu vực đối diện số 161 Giải Phóng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Nguyễn Xuân Minh T điều khiển xe máy Honda Wave, không đeo biển kiểm soát dùng tay cướp giật 01 chiếc điện thoại Iphone XR 64Gb màu trắng trị giá 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) của chị Cao Nguyễn Quỳnh L. Tài sản đã thu hồi và trả lại cho bị hại. Bị hại không có yêu cầu gì về dân sự.

Ngoài ra, sau khi cướp giật được điện thoại, T đã có hành vi sử dụng thông tin về tài khoản của chị Cao Nguyễn Quỳnh L ở ngân hàng Vietinbank để chuyển số tiền 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng) và ngân hàng Techcombank để chuyển số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho Chu Quang S với mục đích nạp tài khoản game. Tổng số tiền T đã chiếm đoạt là 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Xuân Minh T đã phạm tội "Cướp giật tài sản" tội danh và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 và tội "Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản", tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 171 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

....

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

…”

Điều 290 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không g iam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

...”

Do đó Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Minh T đã phạm tội "Cướp giật tài sản" tội danh và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 và tội "Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản", tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân Minh T là nguy hiểm cho xã hội, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại để thực hiện hành vi. Bị cáo đã dùng xe máy làm phương tiện để cướp giật tài sản. Việc dùng xe máy để cướp giật tài sản là rất nguy hiểm, không những chỉ xâm phạm đến tài sản của người bị hại mà còn ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại. Ngoài ra, bị cáo còn có hành vi sử dụng thông tin về tài khoản của người bị hại để nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản để thanh toán dịch vụ mua hàng. Cụ thể, khi cướp giật được chiếc điện thoại của chị L, bị cáo đã có hành vi dùng tay ấn liên tục vào màn hình chiếc điện thoại để màn hình không bị khóa rồi truy cập vào phần ghi chú để lấy thông tin, mật khẩu tài khoản icloud và tài khoản ngân hàng của người bị hại. Sau đó, bị cáo đăng nhập vào tài khoản ngân hàng Vietinbank để chuyển số tiền 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng) và ngân hàng Techcombank để chuyển số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho Chu Quang Thanh với mục đích nạp tài khoản game. Tổng số tiền T đã chiếm đoạt là 8.000.000 đồng (tám triệu đồng). Bị cáo trực tiếp thông qua mạng viễn thông sử dụng thông tin về tài khoản của cá nhân để chiếm đoạt tiền của chị L để thanh toán nạp tiền chơi game trên mạng. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[3]. Xét nhân thân bị cáo:

Xét nhân thân bị cáo Nguyễn Xuân Minh T năm 2017 bị TAND thành phố Hà Nội xử 09 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được xóa án tích, cho thấy bị cáo đã được giáo dục pháp luật nhưng không chịu tu dưỡng đạo đức mà vẫn tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4]. Về hình phạt bổ sung:

Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại chị Cao Nguyễn Quỳnh L đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại Iphone XR màu trắng và nhận được tiền bồi thường của gia đình bị cáo và không có yêu cầu gì về dân sự nên không xem xét.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Đình G không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng cầm cố điện thoại và không có yêu cầu gì khác về dân sự nên không xem xét

[6]. Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

- Về vật chứng: Không

- Về các vấn đề khác:

+ Truy thu số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo được hưởng lợi bất chính từ việc bán chiếc điện thoại Iphone XR để sung công quỹ nhà nước.

+ Đối với chiếc sim điện thoại của chị L mà T đã vứt đi, chị L không có yêu cầu gì nên không xem xét.

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave không biển kiểm soát T sử dụng để đi cướp giật tài sản, T đã trả lại cho nam thanh niên không quen biết ở quán game khu vực thôn Vĩnh Ninh, Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì. Hiện, Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng không xác định được nam thanh niên trên và không thu giữ được chiếc xe trên nên không xem xét.

[7]. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Nguyễn Xuân Minh T phạm tội: Cướp giật tài sản” và tội: “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm a khoản 1 Điều 290, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 55 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Xuân Minh T: 48 (Bốn mươi tám) tháng tù về tội: “Cướp giật tài sản” cộng với 12 (Mười hai) tháng tù về tội: “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt bị cáo phải chấp hành cho hai tội là: 60 (Sáu mươi) tháng tù.

2. Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và tiền bồi thường, không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên không xét.

4. Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

- Về xử lý vật chứng: Không.

- Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 5.000.000 đồng thu lời bất chính để sung công quỹ nhà nước.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản và sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 305/2021/HSST

Số hiệu:305/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về