Bản án về tội cướp giật tài sản số 96/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 96/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 83/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 632/2022/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Lưu Đức T, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Số căn cước công dân: 07909300**** do Cục CS QLHC về TTXH cấp ngày 26/8/2020; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường 14, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; Hiện không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lưu Đức S (chết) và bà Đỗ Thị Ngọc H; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 20/8/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 93/2014/HSST ngày 20/8/2014), đã xóa án tích. Ngày 12/5/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng (theo Quyết định số 153/QĐ-TA ngày 12/5/2017), đã chấp hành xong quyết định ngày 28/7/2018;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1996; Địa chỉ: Phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (Có đơn xin vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Đỗ Thị Ngọc H2, sinh năm 1968; Địa chỉ: phường Tân Thuận Đông, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Ánh N, sinh năm 1996; Địa chỉ: Phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (Có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lưu Đức T và Trần Minh S1 là bạn quen biết nhau trước đó khi đi cai nghiện ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 03/02/2022, do không có tiền tiêu xài nên S1 rủ T đi cướp giật tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, T đồng ý và giao xe mô tô hiệu Honda, loại Vario, biển kiểm soát 59C3-241.XX cho S1 điều khiển chở T đi tìm người sơ hở tài sản để chiếm đoạt.

Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi S1 điều khiển xe chở T lưu thông ngang qua nhà số 55/30 đường Trần Đình Xu, phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh thì T phát hiện chị Nguyễn Thị Thu H1 và chị Nguyễn Ánh N đang đứng trước nhà, trên tay chị H1 đang cầm điện thoại di động sử dụng nên T nói S1 quay xe lại, dừng xe cách chị H1 khoảng 02 mét, T xuống xe đi bộ áp sát dùng tay phải giật điện thoại của chị H1 đang cầm trên tay trái rồi bỏ chạy, nhảy lên xe của Sang chờ sẵn tẩu thoát. Chị H1 cùng chị N truy hô đồng thời đuổi theo tóm được cổ áo và kéo T ngã xuống đường tại trước nhà số 55/19 Trần Đình Xu, phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng lúc này, ông Lê Phú H3 (Cán bộ Công an phường Cầu Kho, Quận 1) đang trên đường tuần tra địa bàn và ông Nguyễn Minh L (người đi đường) chứng kiến sự nên bắt giữ T, thu giữ tang vật giao cho Công an phường Cầu Kho, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 để xử lý, riêng Trần Minh S1 điều khiển xe mô tô chạy thoát.

Theo Kết luận định giá tài sản số 38/KL-HĐĐGTS ngày 19/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận 1 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, số Imei 353097100094746 trị giá 6.750.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Lưu Đức T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của T phù hợp các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, số Imei 353097100094746 trị giá 6.750.000 đồng (đã thu hồi trả lại cho người bị hại là chị Nguyễn Thị Thu H1);

- 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, loại Vario, biển kiểm soát 59C3- 241.XX, số khung: MH1KF4128MK432564, số máy KF41E2436579, qua giám định số khung, số máy nguyên thủy, xác định do bà Đỗ Thị Ngọc H2 (là dì ruột của T), địa chỉ: Phường 14, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu. Ngày 03/02/2022, bà H2 cho T1 mượn xe để sử dụng và không biết việc T1 đi cướp giật tài sản. Ngày 17/3/2022, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho bà Đỗ Thị Ngọc H2.

Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 còn thu giữ của Lưu Đức T:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, loại A3S; số Imei 1: 867013049199917 và Imei 2: 867013049199909;

- 01 áo thun tay ngắn, màu đen; 01 quần jean ống dài và 01 đôi dép loại xỏ ngón, màu đen.

Tất cả các vật chứng trên hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đang tạm giữ.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Thu H1 không có yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 90/CT-VKSQ1 ngày 13 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lưu Đức T về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại Khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Đỗ Thị Ngọc H2 có lời khai thống nhất như tại cơ quan điều tra, bà H2 xác nhận đã được cơ quan điều tra trả lại tài sản là xe gắn máy Honda, loại Vario, biển kiểm soát 59C3-241.XX và bà H2 không có yêu cầu hay ý kiến gì khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lưu Đức T về tội “Cướp giật tài sản”. Hành vi của bị cáo T đã cấu thành tội Cướp giật tài sản mà tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại nên đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản. Về xử lý vật chứng đề nghị: Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo; 01 áo thun tay ngắn, màu đen; 01 quần jean ống dài và 01 đôi dép loại xỏ ngón, màu đen thu giữ của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Bị cáo không bào chữa, không tranh luận, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về hành vi của bị cáo:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Lưu Đức T thừa nhận hành vi: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 03/02/2022, tại trước nhà số 55/30 Trần Đình Xu, phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Lưu Đức T có hành vi dùng tay giật 01 điện thoại di động hiệu I Phone XS Max của chị Nguyễn Thị Thu H1 rồi nhanh chóng tẩu thoát.

Theo Kết luận định giá tài sản số 38/KL-HĐĐGTS ngày 19/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận 1 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, số Imei 353097100094746 trị giá 6.750.000 đồng Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản, mà tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Điều 171 Bộ luật Hình sự quy định như sau: “1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại (tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại), thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Hành vi phạm tội của bị cáo Lưu Đức T là táo bạo, liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì để có tiền tiêu xài bị cáo cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác với thủ đoạn nguy hiểm, nhanh chóng và công khai. Bị cáo có nhân thân xấu, do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian với mức hình phạt nhất định tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội nhằm giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, có cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo tốt, nhìn nhận được sai lầm sớm trở thành người lương thiện, sống có ích, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội.

Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 1 tiếp tục truy tìm, xác minh, nếu đủ cơ sở xác định Trần Minh S1 cùng thực hiện hành vi phạm tội với Lưu Đức T sẽ xử lý theo quy định pháp luật.

[5] Về vật chứng, đồ vật tạm giữ:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, số Imei 353097100094746 trị giá 6.750.000 đồng. Đây là tài sản của chị Nguyễn Thị Thu H1 nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị H1. Việc xử lý vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra là đúng quy định pháp luật.

- Đối với 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, loại Vario, biển kiểm soát 59C3-241.XX, số khung: MH1KF4128MK432564, số máy KF41E-2436579, qua giám định số khung, số máy nguyên thủy, xác định do bà Đỗ Thị Ngọc H2 (là dì ruột của T), địa chỉ: Phường 14, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu. Ngày 03/02/2022, bà H2 cho T mượn xe để sử dụng và không biết việc T đi cướp giật tài sản nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bà H2. Việc xử lý vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra là đúng quy định pháp luật.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, loại A3S, số Imei 1: 867013049199917; số Imei 2: 867013049199909; 01 áo thun tay ngắn, màu đen; 01 quần jean ống dài và 01 đôi dép loại xỏ ngón, màu đen: Đây là tài sản cá nhân của Lưu Đức T, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về trach nhiêm dân sư: Bi hai la chị Nguyễn Thị Thu H1 đa nhân lai tai san, không yêu cầu gi thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lưu Đức T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào Điều 38; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt Lưu Đức T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2022.

- Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, loại A3S, số Imei 1: 867013049199917; số Imei 2: 867013049199909; 01 áo thun tay ngắn, màu đen; 01 quần jean ống dài và 01 đôi dép loại xỏ ngón, màu đen (Phiếu nhập kho vật chứng số 48/22-PNK ngày 21 tháng 02 năm 2022 của Công an Quận 1).

- Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

- Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 96/2022/HS-ST

Số hiệu:96/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về