Bản án về tội cướp giật tài sản số 70/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: 09 đường Phú Hòa, Phường 07, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

A, sinh ngày 02 tháng 12 năm 1997, nơi sinh: Sóc Trăng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A1, xã A2, huyện A3, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở: đường C, khu phố C1, phường C2, quận C3, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông D và bà D2; vợ D3 và con D4, sinh năm: 2017; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt phạm tội quả tang ngày 04/9/2020 (có mặt).

- Bị hại: Chị Q, sinh năm: 2001 Địa chỉ: Thôn Q1, xã Q2, huyện Q3, tỉnh Bình Định (vắng mặt).

- Bị hại: Chị V, sinh năm: 1990 Địa chỉ: đường số V1, ấp V2, xã V3, huyện V4, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, A điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 83P3-X Q thông trên đường Lý Thường Kiệt hướng về ngã tư Bảy Hiền phát hiện chị Q đang điều khiển xe máy chạy phía trước cùng chiều, trong túi quần sau bên phải có lồi ra chiếc điện thoại Samsung J2 Pro. Khi đến trước số nhà 645 Lý Thường Kiệt, Phường 11, quận Tân Bình, Công liền vượt lên áp sát bên phải chị Q, dùng tay trái giật lấy điện thoại của chị Q rồi tăng ga bỏ chạy. Chị Q tri hô và truy đuổi theo Công. Khi chạy đến trước số 160/8 Hồng Lạc, Phường 11, quận Tân Bình, Công bỏ lại chiếc điện thoại Samsung J2 Pro xuống đường mục đích để chị Q dừng lại nhặt, nhưng chị Q vẫn tiếp tục truy đuổi, sau đó cùng với tổ tuần tra Công an Quận 11 đã bắt giữ Công.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Ngoài ra, Công còn khai nhận trước đó vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, Công điều khiển xe máy Q thông trên đường Lãnh Binh Thăng phát hiện chị V đang điều khiển xe máy phía trước cùng chiều, trong túi quần trước bên phải có để lồi ra chiếc điện thoại di động hiệu Vivo. Khi đến trước số nhà 30 Lãnh Binh Thăng, Phường 13, Quận 11, Công điều khiển xe chạy từ phía sau vượt lên áp sát bên phải chị V, dùng tay trái giật chiếc điện thoại của chị V rồi tăng ga xe tẩu thoát.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J2 Pro màu xanh có ốp lưng màu vàng đã thu hồi trả lại cho chị Q.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu đen đã thu hồi trả lại cho chị V.

- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển số: 83P3-X, số khung: RLCUE1710HY190077, số máy: E3T6E276224.

- 01 (một) nón bảo hiểm màu trắng sữa; 01 (một) nón lưỡi trai màu đen sọc đỏ ở giữa có chữ “Gucci”, “GJ” và 01 (một) áo khoác gió có mũ chùm giữa liền, màu trắng sữa, tay áo dài màu đen, bên trong áo khoác là vải thun màu đen.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu vàng, 64GB, số Imei: 357298092646628.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1203 màu đen, số Imei: 353120111676721.

- 01 (một) con dao màu đen bằng kim loại có cán bằng kim loại dài khoảng 20cm.

- 01 (một) miếng kim loại màu vàng hình bát giác đường kính khoảng 3cm.

- 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng.

Theo Kết luận định giá tài sản số 336/HĐĐGTS-TTHS ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh thì 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J2 Pro màu xanh đã qua sử dụng có giá trị 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn) đồng và 01 (một) ốp lưng điện thoại di động màu vàng có giá trị là 50.000đ (Năm mươi nghìn) đồng; tổng cộng là 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng.

Theo Kết luận định giá tài sản số 92/HĐĐGTS-TTHS ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh thì 01 (một) điện thoại di động Vivo đã qua sử dụng có giá trị 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn) đồng.

Bản cáo trạng số 64/CTr-VKS-TB ngày 26 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo A về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận: Đây là vụ án cướp giật tài sản do A thực hiện. Vì mục đích tư lợi, Công đã có hành vi sử dụng xe gắn máy thực hiện 02 vụ cướp giật điện thoại di động với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 2.450.000 đồng, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với A về tội cướp giật tài sản. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội 02 lần trở lên, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo A từ 04 (bốn) năm đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị xem xét xử lý theo quy định. Về phần dân sự: Bị hại chị Q và chị V đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu bồi thường, không thắc mắc khiếu nại về sau.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo không bào chữa hay tranh luận gì với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho bị cáo một số tài sản, vật dụng như điện thoại, nón bảo hiểm, nón, áo, miếng kim loại màu vàng và số tiền 1.500.000 đồng.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo suy nghĩ không sáng suốt, chỉ mong Hội đồng xét xử chiếu cố xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về lo cho gia đình, vợ con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an quận Tân Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thực nghiệm điều tra cùng với các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 03/9/2020, A đã hai lần sử dụng xe gắn máy thực hiện hành vi chạy áp sát xe gắn máy của chị V và của chị Q, giật 02 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo và điện thoại Samsung J2 Pro của chị V và chị Q rồi tăng ga bỏ chạy. Theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 11 và quận Tân Bình thì trị giá chiếc điện thoại di động hiệu Vivo là 1.200.000 đồng, chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J2 Pro là 1.200.000 đồng và ốp lưng là 50.000 đồng; tổng cộng là 2.450.000đ (Hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình truy tố bị cáo theo tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, hành vi của bị cáo được thực hiện rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cho nhu cầu cá nhân và sử dụng ma túy, bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội, cho thấy bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời cũng để bảo đảm đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung và cũng tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo nhiều lần chiếm đoạt tài sản của các bị hại, trong đó mỗi lần cách nhau một khoảng thời gian nhất định, đều xâm phạm trực tiếp đến cùng một khách thể, mỗi lần thực hiện hành vi đều đủ cấu thành tội phạm. Do đó, cần áp dụng đối với bị cáo tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn đang phải nuôi con nhỏ. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen, biển số: 83P3-X, số khung: RLCUE1710HY190077, số máy: E3T6E276224 là phương tiện bị cáo Công dùng vào việc phạm tội. Qua điều tra xác minh, xác định chiếc xe máy do A đứng tên đăng ký xe và thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 (một) nón bảo hiểm màu trắng sữa; 01 (một) nón lưỡi trai màu đen sọc đỏ ở giữa có chữ “Gucci”, “GJ”; 01 (một) áo khoác gió có mũ chùm giữa liền, màu trắng sữa, tay áo dài màu đen, bên trong áo khoác là vải thun màu đen; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu vàng, 64GB, số Imei: 357298092646628; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1203 màu đen, số Imei:

353120111676721; 01 (một) miếng kim loại màu vàng hình bát giác đường kính khoảng 3cm và số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng là tài sản, vật dụng của bị cáo Công nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 (một) con dao màu đen bằng kim loại có cán bằng kim loại dài khoảng 20cm thu giữ của bị cáo, không có giá trị, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J2 Pro màu xanh có ốp lưng màu vàng và 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu đen bị cáo Công chiếm đoạt, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã thu hồi trả lại cho bị hại chị Q và chị V theo đúng quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Chị Q đã nhận lại tài sản, về phần dân sự không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Bị hại chị V đã nhận lại tài sản. Tại phiên tòa chị V vắng mặt nên không rõ yêu cầu, vì vậy cần dành cho chị V quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với bị cáo Công bằng một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

[9] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và mức án đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điều 47; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 329 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo A phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo A 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

2. Dành cho chị V quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với bị cáo A bằng một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen, biển số: 83P3-X, số khung: RLCUE1710HY190077, số máy: E3T6E276224.

3.2. Giao trả 01 (một) nón bảo hiểm màu trắng sữa; 01 (một) nón lưỡi trai màu đen sọc đỏ ở giữa có chữ “Gucci”, “GJ”; 01 (một) áo khoác gió có mũ chùm giữa liền, màu trắng sữa, tay áo dài màu đen, bên trong áo khoác là vải thun màu đen; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu vàng, 64GB, số Imei:

357298092646628; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1203 màu đen, số Imei: 353120111676721; 01 (một) miếng kim loại màu vàng hình bát giác đường kính khoảng 3cm và số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng cho bị cáo A.

3.3. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao màu đen bằng kim loại có cán bằng kim loại dài khoảng 20cm.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 1240 ngày 30 tháng 3 năm 2021 và Phiếu nhập kho vật chứng số 51/PNK ngày 31 tháng 3 năm 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh).

4. Về án phí: Bị cáo Công phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về