Bản án về tội cướp giật tài sản số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 09/03/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2022/TLST- HS ngày 16 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đƣa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trịnh Xuân P, sinh năm 1998 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cƣ trú: Khu phố 11, thị trấn S, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ văn hóa 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Lê Thị Đ, không rõ tên cha; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 09/11/2017 bị Công an huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm phạm sức khỏe ngƣời khác (theo Quyết định số 229/QĐ-XPHC); ngày 24/8/2020 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa khởi tố bị can về tội Cố ý gây thƣơng tích nhƣng bị cáo bỏ trốn và đã có quyết định truy nã; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/6/2021.

2. Nguyễn Viết Anh D, sinh năm 2001 tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cƣ trú: Thôn H, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc H và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ tên Trƣơng Thị Hà M và có 01 ngƣời con; tiền án: Ngày 29/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 03 tháng 12 ngày tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án 38/2020/HSST), tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/6/2021.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1987, nơi cƣ trú: Ấp M, xã M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; chỗ ở: Ô 24 tổ 14, khu phố 4, phƣờng A, thành phố T, tỉnh Bình Dƣơng. Có mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Vũ L, sinh năm 1991, nơi cƣ trú:

Thôn T, xã Tr, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:

Ông Phan Văn Q, sinh năm 1997. Có mặt Ông Diệp Phong N, sinh năm 1981. Có mặt Ông Trần Thanh D, sinh năm 1997. Có mặt Ông Vƣơng Trọng H, sinh năm 1995.Vắng mặt Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1987. Có mặt Ông Nguyễn Minh Th, sinh năm 1994.Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 10/6/2021, Trịnh Xuân P điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 36B7-812.99 chở phía sau Nguyễn Viết Anh D lƣu thông trên đƣờng số 6, KCN Việt Nam - Singapore, thành phố Thuận, tỉnh Bình Dƣơng. Khi P và D đi đến trƣớc Công ty TNHH Persima thì nhìn thấy bà Nguyễn Thị C đang điều khiển xe mô tô biển số 67B2 - 420.08 có để 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, kiểu dáng A53 ở túi quần bên trái lộ ra ngoài. Lúc này, P nói "làm không" thì D trả lời "làm" thì P điều khiển xe mô tô chạy lên áp sát bên trái xe mô tô của bà C để D ngồi phía sau dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di dộng của bà C rồi P tăng ga bỏ chạy. Bị giật điện thoại bà C truy hô "cƣớp! cƣớp!" đồng thời điều khiển xe đuổi theo. Khi P và D chạy đến đƣờng Đại lộ Hữu Nghị thì bị lực lƣợng bảo vệ khu công nghiệp Việt Nam - Singapore bắt giữ đƣợc P, D cùng tang vật bàn giao Công an đồn Vsip xử lý.

Vật chứng tạm giữ: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 36B7-812.99; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, kiểu dáng A53.

Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, kiểu dáng A53 có giá trị là 1.300.000 đồng.

Cáo trạng số 52/CT-VKSTA ngày 15/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng đã truy tố các bị cáo Trịnh Xuân P, Nguyễn Viết Anh D tội Cƣớp giật tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định nhƣ bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về nhân thân: các bị cáo có nhân thân xấu; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo P phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo D phạm tội thuộc trƣờng hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã đƣợc thu hồi trả cho chủ sở hữu, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phƣơng chƣa thành khẩn khai báo nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc.

Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Trịnh Xuân P mức án từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Nguyễn Viết Anh D mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã thu hồi giao trả cho bị hại và bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thƣờng gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị giao cho Công an thành phố Thuận An xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 36B7-812.99 để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Viết Anh D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình nên xin đƣợc hƣởng mức hình phạt thấp nhất để có điều kiện làm lại cuộc đời.

Bị cáo Trịnh Xuân P không thừa nhận hành vi phạm tội.

Bị hại trình bày nội dung sự việc nhƣ bản cáo trạng truy tố, sau khi bị cƣớp giật điện thoại bà C đuổi theo và truy hô thì đƣợc lực lƣợng bảo vệ Khu công nghiệp hỗ trợ bắt giữ các bị cáo, bà C xác định bị cáo P là ngƣời điều khiển xe áp sát và tăng tốc bỏ chạy và bị bắt sau đó. Bà C đã nhận lại chiếc điện thoại bị cƣớp, không có yêu cầu gì và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Những ngƣời làm chứng Phan Văn Q, Diệp Phong N, Trần Thanh D, Nguyễn Tấn L cùng trình bày: Ông Q, ông N, ông D, ông L là bảo vệ Khu công nghiệp VSIP và trực ca ngày 10/6/2021. Khi trong trực ca thì nghe bị hại truy hố cƣớp cƣớp thì tất cả anh em bảo vệ thông báo cho nhau chặn chốt và đuổi theo ngƣời vi phạm và bắt đƣợc cả hai bị cáo đƣa về Đồn công an Khu công Nghiệp VSIP chính là hai bị cáo có mặt tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những ngƣời tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Viết Anh D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết nhƣ bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại, ngƣời làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Xuân P không thừa nhận hành vi phạm tội nhằm trốn tránh sự trừng trị của pháp luật. Xét lời khai của bị cáo Nguyễn Viết Anh D, bị hại Nguyễn Thị C và lời khai của những ngƣời làm chứng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, trƣớc sau thống nhất với nhau, phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, phù hợp tang vật chứng thu giữ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ có căn cứ xác định: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 10/6/2021, Trịnh Xuân P điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 36B7-812.99 chở phía sau Nguyễn Viết Anh D lƣu thông trên đƣờng số 6, KCN Việt Nam - Singapore, thành phố Thuận, tỉnh Bình Dƣơng. Khi đi đến trƣớc Công ty TNHH Persima thì nhìn thấy bà Nguyễn Thị C đang điều khiển xe mô tô biển số 67B2 - 420.08 có để 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, kiểu dáng A53 ở túi quần bên trái lộ ra ngoài thì P điều khiển xe mô tô chạy lên áp sát bên trái xe mô tô của bà C để D ngồi phía sau dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di dộng của bà C rồi Phƣơng tăng ga bỏ chạy. Hành vi của bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Cƣớp giật tài sản, các bị cáo sử dụng xe môtô là nguồn nguy hiểm cao độ đang lƣu thông trên đƣờng cƣớp giật tài sản của bị hại có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của bị hại và những ngƣời khác đang tham gia lƣu thông trên đƣờng là phạm tội thuộc trƣờng hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm là tình tiết định khung theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố các bị cáo về tội Cƣớp giật tài sản theo các điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật, mức đề nghị hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của ngƣời khác một cách trái pháp luật, là nguy cơ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của ngƣời khác, xâm phạm trật tự an toàn công cộng, ảnh hƣởng an ninh xã hội tại địa phƣơng. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi sử dụng xe mô tô đang lƣu thông để cƣớp giật tài sản của bị hại là rất nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe của họ, của chính bị cáo và những ngƣời khác, là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị, nhƣng vì động cơ tham lam, tƣ lợi, nên các bị cáo cố ý phạm tội. Các bị cáo có nhân xấu, bị cáo D đã từng bị Tòa án có thẩm quyển xử phạt về tội Trộm cắp tài sản; bị cáo P đã từng bị ngƣời có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe ngƣời khác, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa khởi tố bị can về tội Cố ý gây thƣơng tích nhƣng không lấy đó làm bài học để tự giáo dục, rèn luyện mà lại cố ý phạm tội là thể hiện coi thƣờng pháp luật nên cần áp dụng mức hình phạt tƣơng xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò và nhân thân của từng bị cáo.

Trong vụ án có đồng phạm, nhƣng mang tính giản đơn, các bị cáo thực hiện hành vi bộc phát nhất thời, tuy nhiên trong vụ án, bị cáo Phƣơng quanh co, chối tội nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo P phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo D phạm tội thuộc trƣờng hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã đƣợc thu hồi trả cho chủ sở hữu, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo D đƣợc hƣởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo P đƣợc hƣởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản chiếm đoạt là 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, kiểu dáng A53 có giá trị là 1.300.000 đồng đã đƣợc thu hồi trả cho bị hại, bị hại không yêu cầu bồi thƣờng gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 36B7-812.99 là phƣơng tiện mà bị can P điều khiển thực hiện hành vi phạm tội. P khai nhận chiếc xe trên P mƣợn của một ngƣời bạn tên “Thành” (không rõ lai lịch, địa chỉ) tại khu vực thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dƣơng để làm phƣơng tiện đi lại. Qua điều tra xác định, chiếc xe này do ông Lê Vũ L đứng tên chủ sở hữu nhƣng ông L không có mặt tại địa phƣơng nên không làm việc đƣợc. Cơ quan điều tra đã tra cứu nguồn gốc xe và ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhƣng đến nay vẫn không có ngƣời đến liên hệ giải quyết, nên giao xe này cho Công an thành phố Thuận An xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự Căn cứ vào: áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Viết Anh Dũng;

- Điểm d khoản 2 Điều 171; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng đối với bị cáo Trịnh Xuân Phƣơng;

- Các Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Trịnh Xuân P, Nguyễn Viết Anh D phạm tội Cƣớp giật tài sản.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết Anh D 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2021.

Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân P 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Giao cho Công an thành phố Thuận An xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xám-đen, biển số 36B7-812.99, số máy: E3T6E449446; số khung: RLCUE1710LY380136 để xử lý theo quy định của pháp luật.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/02/2022.

3. Về án phí: Các bị cáo Trịnh Xuân P, Nguyễn Viết Anh D mỗi ngƣời phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, bị hại, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ngƣời vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án đƣợc giao hoặc niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về